Nguyễn Thị Minh Tâm
Nếu văn Lê Đạt sắc sảo, góc cạnh thì văn Lê Minh Hà lại có phần nhẹ nhàng, đằm thắm. Với truyện Gióng, tiêu đề dễ làm người ta lầm tưởng tác giả viết về Gióng, nhưng thực ra lại kể về người mẹ sinh ra Gióng. Toàn bộ truyện là những lời độc thoại, ngay cả những lời đối thoại trong cơn mơ cũng là một trong những hình thức độc thoại, thể hiện những nỗi niềm của người mẹ dành cho đứa con mới lên ba đã phải đảm đương trọng trách của người lớn để rồi trở thành thánh nhân. Một trong “Tứ bất tử” của Việt Nam chỉ là một cậu bé, nhưng trong tưởng tượng, Gióng vẫn là vị anh hùng cưỡi ngựa sắt, mặc áo giáp sắt, xông pha trận mạc, đánh đuổi quân thù đem lại bình yên cho đất nước, để rồi sau khi hoàn thành nhiệm vụ lại bay về trời.
Đó là câu chuyện xưa nay ai cũng biết, nhưng có những điều chưa ai biết cho đến khi đọc truyện Gióng. Câu thơ đề từ “Không ai cúng thờ niềm thương nhớ ấy” (lời thơ của Đỗ Quang Nghĩa) như một lời ru, một bài đồng giao mẹ vẫn hát, câu thơ đề từ như nói lên tất cả: mọi người thờ Thánh Gióng nhưng Gióng mới lên ba, mới là một đứa trẻ, ít ai hiểu tình cảm thiêng liêng và rất đỗi đời thường của mẹ Gióng dành cho con. Mẹ Gióng nói chuyện với con hằng đêm trong cơn mơ. Với bà, đứa con bé bỏng luôn ở bên, vui đùa và nũng nịu cùng mẹ, vậy mà Gióng phải xa mẹ khi “mẹ chưa kịp dạy con gì ngoài yêu thương”. Người mẹ luôn nhớ con thương con, tự hào vì con của mẹ đã cứu giữ nước non, nhưng lại cảm thấy xót xa khi chợt nghĩ “Chẳng mấy ai còn nhớ người được dâng hương chính là chú bé của mẹ”. Chúng ta cảm nhận được nỗi niềm của mẹ qua những lời đối thoại với con trong cơn mơ và độc thoại với chính mình. Nếu như câu chuyện về Thánh Gióng là phần một, hậu truyện này là phần hai thì dân tộc ta hẳn còn dựng một lên bức tượng đài về mẹ.
Trong các phần hậu truyện, lời của nhân vật nhiều khi chính là lời của lớp người hiện đại đánh giá về các nhân vật cổ xưa. Trong truyện An Dương Vương (Lê Minh Hà), đoạn đối thoại của An Dương Vương và Rùa Vàng vừa thể hiện sự dằn vặt, day dứt của một vị vua đã làm mất nước, một người cha đã giết con gái mình. Lời của An Dương Vương vừa tự trách lại vừa thanh minh cho hành động của mình còn lời của Rùa Vàng là lời của nhân dân, những con người của thời đại ngày nay. Câu chuyện kết thúc với một giai thoại mới, là “điềm trời” cho mưa thuận gió hoà, đó mới là điều cần thiết nhất với mọi người. Cuộc đối thoại của hai nhân vật cũng có thể hiểu như là sự đối mặt giữa quá khứ, thứ đã trở thành những huyền thoại lung linh màu nhiệm và hiện đại, cuộc sống xô bồ nơi ta phải đấu tranh để khẳng định mình, để sống và vươn lên. Sự tiến lên của thời gian là sự lùi lại của lịch sử, thời gian có thể xoá đi lỗi lầm, nhưng khó có thể xoá được khi ngay trong chính lòng mình luôn trỗi dậy cảm giác có lỗi. Cảm giác đó khó biến mất mà đôi lúc lại quay về, tựa như những vết thương cũ tái phát. Những lời vấn đáp giữa An Dương Vương và Rùa Vàng cũng có thể xem là sự phán xét khách quan của dư luận, của thế hệ sau dành cho nhà vua và công chúa Mỵ Châu. Vẫn là hình ảnh những nhân vật cổ xưa nhưng tư duy mang đậm tính hiện đại, những băn khoăn, lý giải đã thể hiện rõ hình ảnh của con người ý thức rõ vị trí của mình.
Những nhân vật như An Dương Vương, Đường Tăng, Cô Tấm đều mang nặng nỗi niềm. Tấm (truyện Ngày xưa cô Tấm) bây giờ luôn phải vật lộn với chính lương tâm của mình, những dằn vặt về việc làm của mình đối với mẹ con Cám. Sự tĩnh lặng không có ngay trong chính lòng mình, sự dằn vặt hành hạ Tấm. Chính nàng tự kết tội mình. Bản thân tự kết tội chính là hành động nặng nề nhất, hành hạ đời sống tinh thần của chính người đó. Tấm chẳng được sống hạnh phúc dẫu lúc này không còn ai giành chồng với nàng nữa. Nhà vua không dám yêu thương một người vợ tàn bạo như thế. Trong truyện cổ tích, Bụt vẫn thường xuất hiện lúc Tấm gặp khó khăn và bảo ban cho nàng vượt qua nhiều khó khăn và thử thách vậy mà lần này Bụt không xuất hiện để giúp Tấm xua đuổi những giấc mơ kinh hoàng, những cơn chống đỡ tuyệt vọng. Chỉ đến khi Tấm khóc và chịu nhận ra lỗi của mình, Cám cũng thôi không xuất hiện nữa. Những nỗi niềm của Tấm phải chăng là sự hóa thân của một con người cá nhân vào con người chức năng bổn phận của truyện cổ tích?
Còn có một loại truyện khác sử dụng vật liệu được lấy từ nhiều truyện khác nhau để tạo nên một truyện mới, cùng thể hiện một chủ đề trung tâm. Các “nguồn vật liệu” này có thể không liên quan đến nhau, nhưng khi được đặt cạnh nhau qua bàn tay tài hoa của các nhà văn thì lại hoà hợp lạ lùng. Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp có hai tác phẩm tiêu biểu viết theo phong cách này: Chút thoáng Xuân Hương và Những ngọn gió Hua Tát. Chút thoáng Xuân Hương gồm những câu chuyện khác nhau đều có hình bóng của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Xuân Hương không xuất hiện trực tiếp, nhưng mọi vấn đề trong tác phẩm đều thể hiện qua cái nhìn của nàng, một con người tài năng và giàu cá tính. Sự tồn tại của nàng giúp người ta hiểu đời và biết vượt lên cái phàm tục, gian trá đầy rẫy trong cuộc đời để con người ta biết phân biệt lẽ phải, vượt qua, chối bỏ đi những cái phàm tục khinh bỉ mà vươn lên. Xuân Hương là hơi rượu thơm, là đóa hoa ngát hương trên bàn thờ, là hơi ấm nước vối có mấy lát gừng thơm cay, là đĩa bánh trôi bốc hơi nóng. Trong truyện này Xuân Hương được nhắc đến trong những cảnh huống khác nhau, tác giả bộc lộ những nỗi niềm khác nhau để cùng làm cho chủ đề trung tâm của truyện được nhen lên giúp con người ý thức rõ giá trị chân thực của cuộc sống để không quên hy vọng vào lý tưởng và cũng không quá thất vọng trước những bế tắc của cuộc đời. Truyện thứ hai viết về những câu chuyện cổ ở bản Hua Tát, là một bản làng có những điểm đặc biệt, màu của huyền thoại vẫn đang bao trùm cả làng bản Những ngọn gió Hua Tát gồm có mười truyện, mỗi truyện nói về những nỗi đau khác nhau: nỗi đau của một con người bé nhỏ, của một tập thể, của cả một thế hệ. Tất cả đều được tái hiện qua những con người cụ thể ở bản Hua Tát. Những con người ấy đó nay không còn nữa, họ đã là đất là gió - những ngọn gió quẩn quanh chân nhà sàn và trên cả những đồi nương. Các nhân vật trong truyện ít có người nào có kết thúc tốt đẹp, người không bỏ mạng thì cũng phải đi xa. Cảnh đời nhiều lắm, chuyện kể về những cảnh đời ấy đã trở thành chuyện cổ, thành những việc đã qua. Ta chỉ có thể nghe lại, khó có thể “can thiệp” vào được. Những thành công và thất bại, những cái được cái mất và làm cho ta bình tĩnh và suy ngẫm. Hình ảnh của bản Hua Tát ở đây được xem như hình ảnh của đất nước Việt Nam, vì thế mọi vấn đề của đất nước đều được nói đến thông qua những câu chuyện cổ.
Truyện Nhân sứ của tác giả Hoà Vang gồm có ba truyện, mỗi truyện cũng nói về một chủ đề, nhưng đều toát lên một chủ đề chung, tìm ra một nhân sứ - một nhân chứng của cuộc đời, tìm ra lẽ sống chân chính, nó ở ngay trong cuộc sống trong mỗi người, chỉ có điều phải sáng suốt, tĩnh tâm mới nhận ra được. Nỗi niềm băn khoăn trước sự đời đó cũng được tác giả Lê Minh Hà thể hiện trong truyện Ới ơi dâu bể gồm có bốn phần ghép lại: Viênan, Chử ơi, Những kẻ lạ, Thất thanh. Ở phần một và phần ba đều nói về những cặp trai gái thời hiện đại. Phần hai nói về mối tình Chử Đồng Tử và Tiên Dung, ở đó chúng ta thấy hình ảnh của họ thật mới mẻ, đến với nhau và sống với nhau thực tế hơn chứ không lung linh như trong truyện cổ tích. Những tưởng sống trong nghèo thiếu mới khổ đằng này Chử sống trong cảnh đầy đủ mà không vui sướng được bao lâu, chàng buồn nhớ và thầm khát khao những cảm giác ngày xưa, sống tự do, phóng khoáng giữa đất trời, chẳng mong làm nên những điều cao xa, lớn lao mà chỉ muốn sống thật với lòng mình. Phần bốn của truyện nhắc lại hai nhân vật này “Tiên Dung và Chử Đồng Tử vẫn sống” ở một nơi xa lắm, nơi không ai còn phải ước mong gì. Bốn phần có vẻ không ăn nhập với nhau nhưng đều có một mối liên hệ, con người từ cổ chí kim đều không bao giờ thoả mãn hết những ham muốn của bản thân mình, hãy biết vừa lòng với những gì mình có. Các phần một - ba và hai - bốn có sự đan xen bắc cầu với nhau tạo nên chủ đề chung của truyện.
Với dạng truyện ngắn viết lại truyện cổ, các yếu tố của truyện cổ trở thành vật liệu được sử dụng để phối trộn với những yếu tố hiện đại tạo nên một tác phẩm mới. Các nhân vật, cốt truyện, tình tiết đều được xử lý và đưa vào những môi trường mới. Đôi khi, trái với kết thúc có hậu trong tích cũ, phần hậu truyện khiến người ta phải suy ngẫm khi nhân vật bộc lộ những nỗi niềm không hài lòng hay tự bạch về những việc làm trong quá khứ, tác giả cũng lồng vào đó cách đánh giá của người đương thời về những yếu tố đã định hình. Các nhân vật đều đối thoại hoặc độc thoại bằng ngôn ngữ hiện đại, với tư duy hiện đại. Vì thế, dạng truyện này đã tạo nên một chỗ đứng cho mình trên văn đàn, gây ra ấn tượng mạnh trong đời sống văn học đương đại.