Dương Thu Hương
Trước đây, anh chưa bao giờ yêu Lựu. Nhưng anh chưa ý thức được điều đó nên cuộc sống chung vẫn diễn ra tẻ nhạt nhưng bình yên. Giờ khi đã có ý thức điều đó. Cuộc sống chung với anh đã khiến nặng nề.
Năm sau khi đứa con trai tròn năm tháng. Vũ Sinh nhập ngũ. Anh được đề bạt trung đội trưởng ngay ngày đầu tiên mặc áo lính. Đơn vị anh đóng quân ngay Thái Nguyên. Từ ngày đó cho tới hội nghị Giơ-ne-vơ ký kết. Năm cửa ô xòe cánh hoa đón đoàn quân kháng chiến trở về, anh không một lần về nhà.
Trong khoảng thời gian ấy, có lần đơn vị Vũ Sinh đóng quân tại một bản Thái Trắng. Chủ nhân nhà anh ở là một ông già. Ông có hai cô con gái. Cô lớn, bị bắt vào đội xòe của quan châu. Cô nhỏ, đi dân công nuôi bộ đội kháng Pháp. Ông già uống rượu như uống nước, kể chuyện thật hay. Hết thời hạn đóng quân, đơn vị anh lên đường, ông ra tiễn hết một con đèo. Lúc sắp từ giã chợt ông giơ tay chỉ về ngọn núi phía trước:
- Ơ... con út đã về kìa. Con út đã về rồi đó...
Phải một lúc, Vũ Sinh mới nhận ra người con gái đang băng qua con đường lượn quanh núi đi về phía mình. Một nàng tiên từ một thế giới mộng ảo bước ra, tha thướt trong bộ váy áo trắng, lúc ẩn lúc hiện trong ánh nắng chiều và giữa sắc xanh trùng điệp của núi rừng, Sinh đứng đờ người hồi lâu. Tới lúc đại dội trưởng chào ông già lần cuối cùng và giục mọi người lên đường anh mới sực tỉnh. Họ cũng tiến về phía con đường lượn quanh núi, ngược chiều cô gái Thái. Không ai nói, nhưng tất cả đoàn quân đều phập phồng chờ đợi lúc gặp mặt người đẹp. Có lẽ người hồi hộp nhất là Vũ Sinh. Mặc dù không mang vác nặng tim anh cứ đập rộn lên như trống trận.
Chừng mười phút sau, họ gặp cô gái. Cô chào bộ đội với giọng trong veo, lảnh lót như tiếng chim. Đại đội dừng lại vài phút, nói chuyện về bản của cô mà họ vừa từ giã. Cậu liên lạc đại đội kể chuyện vanh vách về ông già sinh ra cô, mặc dầu cậu ta chỉ sang chơi dăm ba lần. Còn Sinh, Sinh đứng im, nghiêm trang nhưng không thể rời mắt khỏi khuôn mặt xinh đẹp của cô gái. Một gương mặt kiều diễm, làn da hồng mịn, hai tràng mày gọn sắc như hai nét mực tầu, sống mũi thanh và làn môi tươi tắn. Vẻ mặt đẹp trinh trắng, mãnh liệt của rừng sâu. Khi cô đi rồi, gương mặt cô, tấm thân mềm dẻo bó trong bộ áo váy của cô không rời anh nữa. Cô như ngôi sao rực rỡ hiện lên giữa chốn núi non trùng điệp, và giữa trái tim trống trải, bơ vơ của anh. Anh cứ tương tư anh cho mãi tới sau này, khi anh gặp người đàn bà thực sự của cuộc đời anh...
- Tôi muốn chúng mình nhìn lại mọi chuyện cho rõ ràng. Bởi vì cuộc đời còn dài quá...
Đại đội trưởng Sinh nói chậm rãi. Anh không nhìn vợ:
- Thực sự chúng ta chưa kịp yêu nhau đã tổ chức cưới. Lúc đó, cả tôi và Lựu còn quá trẻ nên không đắn đo...
Người đàn bà lắng nghe, chăm chú. Chợt nghĩ rằng lúc sắp lấy anh, chị cũng còn thinh thích hai chàng trai cùng làng.Một anh có bằng Séc-ti-phi-ca, làm hương sự. Còn anh kia vào bộ đội trước lúc chị lên huyện. Kể ra chị cứ lấy một trong hai anh ấy cũng chẳng khác gì Vũ Sinh là bao... Vậy, tại sao, chi không nghĩ ra điều đó?... có lẽ vì sự chế nhạo, ghép đôi của mọi người khiến chị tưởng rằng chị yêu Sinh hơn hai chàng kia chăng? Cũng có lẽ lúc đó chị chưa nghĩ được điều gì cho đến đầu đến đũa...
Người chồng tiếp tục nói:
- Nhiều lần, tôi cứ nghĩ, giá như chúng ta sớm nhìn nhận ra điều này... Hồi hòa bình lập lại chẳng hạn. Lúc đó, chưa có con Mai...
Anh lại cúi đầu theo thói quen, lùa tay vào mái tóc. Người đàn bà đột nhiên bật tiếng thở dài. Chị hiểu chồng muốn nói: "Giá cứ bỏ nhau ngay lúc đó lại dễ dàng hơn...". Chị nhớ cảm giác đau đớn của mình vào một buổi sáng đón anh về. Giữa đám đông các ông chú, bà bác, các cô cậu, lũ cháu, anh hoàn toàn thoải mái, vui vẻ, mừng rỡ... Chị kiên tâm chờ đợi như những người đàn bà khác. Biết rằng một chiến sỹ từ mặt trận chiến thắng trở về là niềm vui chung cho tất cả những ai có liên quan huyết thống và quê hương với anh. Nhưng, khi mâm cỗ cuối cùng đã dọn xong, khi mọi người đã ngủ ngon lành sau một ngày cười nhiều, khóc nhiều, nói nhiều và ăn uống ngon lành. Lúc đó, chị chờ anh với niềm khát khao tự nhiên của một người vợ đã qua bốn năm đằng đẵng xa chồng. Anh vào. Anh hỏi chị những câu anh đã hỏi nhiều người thân một cách nhạt nhẽo. Dường như anh phải cố gắng để nghĩ ra những câu hỏi đó cho có chuyện mà nói. Chị cũng trả lời anh những câu mà bố mẹ chồng, anh em chú bác chồng nói rồi. Tới một khoảng khắc im lặng vô duyên cớ, ngượng ngùng, oi nóng. Rồi sau khoảng khắc đó, anh hối hả chung chăn gối với chị, gấp gáp và thất thường. Một giây lát cảm xúc thoáng qua cả hai người cùng nằm im. Chị ngửi mùi rêu bay lên từ chân giường, mùi hoa móng rồng phía vườn sau theo gió đưa vào, mùi chăn chiếu ẩm mốc quạnh hưu... Chị thấy những mùi cũ kỹ đó sẽ còn cũ kỹ mãi như thế. Còn anh, anh cũng hít mùi thơm ngọt ngào của thứ hoa móng rồng hoàng anh - loài hoa cánh dày có màu vàng như màu lông chim hoàng anh. Anh đã hái hoa đó từ khi anh mười một tuổi. Nên mùi thơm của nó thấm sâu vào tâm hồn. Nó là dĩ vãng thân thuộc của anh... còn mùi rêu ẩm ướt dưới chân tường, mùi giường chiếu, và hơi thở của người vợ bên cạnh anh đều là xa lạ. Chúng ở tít xa, nơi nào đó, bên ngoài khoảng sáng trong tâm hồn. Tiếng nói mê ú ớ của đứa con trai khiến anh nao lòng. Anh quay sang hôn vụng nó trong giấc ngủ. Rồi sau đó anh lại nằm ngửa lên, không thể nào quên được hình ảnh cô gái Thái và mùi hoa móng rồng. Mùi hương của tuổi thơ và hình ảnh nàng tiên trắng trong ảo mộng theo anh vào giấc ngủ...
Anh cứ sống như vậy. Có những lần, chung chăn gối với vợ nhưng anh tưởng mình đang ôm ấp người con xinh đẹp tha thướt trong bộ váy áo trắng xinh đẹp kia. Khi bừng tỉnh, anh cảm thấy như bị rơi xuống đáy vực. Một nỗi tức giận khiến anh vùng lên, mở chốt cửa ra vườn, hút thuốc...
- Cũng đã nhiều lần... Người chồng tiếp tục nói với giọng đều đặn: Nhiều lần, tôi cứ nghĩ rằng chúng ta cũng đã qua thời xuân xanh, vì con cái cứ duy trì cuộc sống này cho hết đời... Nhưng Lựu thông cảm, càng ngày tôi càng xa Lựu hơn ... Mà đã không yêu, không xúc động, không thể... Lựu sẽ khổ... không chỉ một vài tháng, dăm ba năm mà suốt đời...
Anh uống một ngụm nước, hắt phần cặn qua cửa sổ ra sân, nói khẽ: không thể nào cố gắng... tình yêu, không thể cố gắng được... Lựu có nghĩ như tôi không?...
Người đàn bà ngẩng đầu nhìn chồng. Chị mơ hồ điều anh nói là đúng. Căn buồng chị sống, với mùi hoa móng rồng, mùi rêu mốc và mùi chiếu giường quạnh hiu cũ kỹ sẽ suốt đời cũ kỹ. Vì không có hơi ấm của người đàn ông. Vì không có tình yêu nồng nàn của người đàn ông ấp ủ. Anh chồng của chị, anh chỉ ghé qua vội vã nhu một kẻ đi đường ghé qua túp lều nát uống tạm bát nước vối. Chị không thể nào biến đổi anh trở thành một người đàn ông khác, một người có khả năng yêu thương chị, ôm ấp chị, sưởi ấm cho chị... Nhưng nếu mất anh?... Chị nghĩ tới hai đứa con của mình, tới những năm tháng đợi chờ vô vọng, những công sức chị đã bỏ ra để tu tạo mảnh vườn sau, vườn trước. Từ hàng rau, khóm ớt, mấy luống rau tới gốc cây vối xanh om, dẫy hoa móng rồng đều có mồ hôi chị nhỏ xuống. Vả chăng, với khả năng kinh tế eo hẹp của chị, một khi rời khỏi ngôi nhà này, chị sẽ bơ vơ... Nỗi tủi nhục như những con sóng dâng lên trong người đàn bà. Chị kêu:
- Nhưng còn con cái, còn nhà cửa... Tôi sẽ...
Và chị òa lên khóc.
Đại đội trưởng Sinh đứng dậy, ra ngoài sân rút khăn mặt mang vào cho vợ lau nước mắt.
- Có, tôi có nghĩ nhiều đến điều đó. Hai đứa con có thể là trở lực cho Lựu đi bước nữa. Ông bà nội sẽ nuôi cả hai đứa. Còn nhà Lựu có thể vẫn cứ ở đây. Còn nếu Lựu không muốn, tôi sẽ thu xếp để tạo cho Lựu một chỗ mới. Một căn nhà, gần nơi Lựu công tác, thuận tiện cho sinh hoạt.
Người đàn bà lắng nghe. Chị ngừng lại một chút để sau đó lại thốt lên kêu:
- Nhưng mà...
Tới đó chị không nói được thêm lời nào nữa vì bị những cơn nức nở nhấn chìm.
Vũ Sinh bước ra ngoài. Anh ngồi trên bậc cửa, nhìn ra sân. Anh nghĩ. Rồi anh lại tự nhủ:
-Không có nỗi khổ nào không vượt qua được. Trong cuộc đời, người ta phải biết vượt. Như con cá vượt qua thác Vũ Môn... Đừng tặc lưỡi. Tặc lưỡi một lần sẽ đeo đẳng nỗi khổ suốt đời...
Anh trở vào buồng đặt tay lên vai vợ:
- Lựu nín đi và bình tĩnh suy nghĩ. Mọi việc đều do Lựu quyết định. Nếu Lựu không muốn chúng ta cứ sống thế này mãi cũng được... Nhưng chắc chắn cả hai đều khổ. Và người đau khổ trước hết là Lựu... Tôi thương Lựu vô cùng. Nhưng Lựu hiểu cho... Tình yêu, không thể cố gắng mà có...
Người đàn bà lắng nghe những lời nói chậm rãi, buồn bã nhưng chắc chắn của chồng. Chị không khóc nữa. Vả lại, lúc đó, ngoài ngõ đã có tiếng reo của hai đứa trẻ. Chúng theo ông bà sang làng bên ăn cỗ đã trở về.
Đại đội trưởng Vũ Sinh đi rồi. Lựu nằm ngẫm nghĩ.
Qua một thời gian vật vã, chị chợt nhận ra những điều anh nói thực sự đúng đắn. Cũng giống như người đi rừng, quanh quéo mãi trong các dãy núi, tới lúc nào đó, vượt khỏi cánh rừng mới nhìn thấy chân trời. Lựu viết thư cho chồng. Trước khi viết, chị định hỏi Hồng Thắm, người bạn thân thiết và là thủ trưởng cơ quan của chị, nhưng Hồng Thắm vừa lên Hà Nội tập trung học chính trị mười tám tháng. Lựu về nhà, viết thư nói với chồng rằng chị đã nhận ra thực sự, rằng anh nên mau chóng trở về để giải quyết việc ly hôn. Chị là người đàn bà thực tế, nên chị hiểu rằng đàn bà con gái có thì, rằng mỗi tuổi nó đuổi xuân đi...
Đại đội trưởng Vũ Sinh thu xếp công việc trở về ngay. Anh lo xây cho chị một ngôi nhà nhỏ ba gian xinh xắn, với một trái bếp ngay cạnh cơ quan chị làm việc. Khi tòa án giải quyết cho ly hôn, ngôi nhà cũng vừa hoàn tất. Lựu bình tĩnh. Chị không buồn vì thấy chồng là người đàng hoàng, rất biết đối xử và anh không có lỗi lầm gì cả. Chị chờ đón một tương lai phía trước. Hai người chia tay nhau như những người bạn, mặc dù có đôi chút ngậm ngùi.
- Rồi Lựu sẽ gặp một người yêu thương Lựu thực sự và sẽ có hạnh phúc. Tôi xin lỗi Lựu vì những ngày tháng chúng ta đã sống với nhau. Nghĩ tới quá khứ, tôi cảm thấy mình là kẻ có tội, dù chính tôi cũng chẳng sung sướng gì ... Cái tội duy nhất của chúng ta là chúng ta không biết nghĩ...
Vũ Sinh nói lời cuối cùng trên đoạn đường Lựu đưa tiễn anh. Đó là một ngã ba. Một phía đường chạy vào trong phố huyện, nơi Lựu làm việc. Một phía chạy về ngôi nhà cũ của Vũ Sinh. Phía thứ ba, là đường dẫn tới trường huấn luyện của quân đội. Đường cát mịn. Sau cơn mưa sạch tinh khôi. Những hạt cát lấp lánh dưới mặt trời. Chúng tựa như một dải bạc, bị cây gậy nào đập xuống, làm vỡ nát và bắn lên tung tóe muôn ngàn ánh sao.
Đại đội trưởng Vũ Sinh trở lại thao trường. Nơi ngày ngày anh hướng dẫn lớp tân binh và từng người trong bọn họ đã trở thành thân thuộc. Trời không có gió nên những bụi cỏ lá nhọn đứng im phăng phắc, chĩa tia lá xanh sáng chói vì sương mai phản chiếu ánh bình minh. Từ dãy nhà bên trái, một người đàn ông trẻ, cởi trần, bận quần đùi màu lá úa nhảy bổ ra:
- A, thủ trưởng đã về, thủ trưởng đi phép đã về. Các cậu ơi! Thủ trưởng có quà gì đấy?
Vũ Sinh cười, lẳng lặng móc trong ba lô lấy gói thuốc với nửa cân chè lam mẹ anh đặt người quen trước lúc anh lên đường:
- Có thuốc sợi với chè lam thôi.
Trong đám tân binh bao quanh anh có người đưa mắt lườm anh chàng bận quần đùi:
- Thủ trưởng có chuyện buồn... Thủ trưởng đang vất vả lại còn mè nheo quà với bánh. Cái cậu Đỏ này thật vô duyên.
Đỏ, anh chàng cởi trần trùng trục, vừa béo vừa đen quay ngay lại:
- Chuyện gì mà buồn?... Vợ chồng không nên duyên phải kiếp thì bỏ nhau, tìm hạnh phúc khác. Cha mẹ, anh em chết đâu mà buồn?... Anh cổ giả bỏ mẹ.
Vũ Sinh dàn hòa:
- Thôi, thôi... Mời tất cả vào nhà uống nước, hút thuốc. Khỏi phải lên chỗ tôi. Các cậu có chè không?
- Báo cáo thủ trưởng, chè Thái loại một ạ... Để dành đúng ngày chủ nhật, thủ trưởng lên trả phép chúng em mới đem ra...
Đỏ lau chau đáp, chạy vào nhà trước. Vũ Sinh cởi ba lô, đặt lên giường rồi ngồi xuống. Anh nhìn hạ sĩ Đỏ lăng xăng chạy đi, chạy lại tìm ấm đun nước, lấy gói chè, hét người này rửa ấm chén, người kia thu dọn chiếu chăn lấy chỗ ngồi... Gương mặt Đỏ tròn căng, tràn trề sinh lực và niềm vui sống.
"Chính cậu ta cũng không ngờ rằng cậu ta đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của mình..." Vũ Sinh thầm nghĩ.
Cách đây hai năm, khi tiếp nhận lớp tân binh mới này, anh thường thường phải quan tâm tới Đỏ. Trước tiên, vì gương mặt mạnh khỏe, hồn nhiên pha chút lém lỉnh của cậu ta. Sau nữa, vì những vụ nghịch ngợm của Đỏ khiến nhiều lúc, không khí nghiêm trang cần thiết và kỷ luật quân nhân bị phá vỡ. Đại loại, giữa những lúc cần chỉnh đốn hàng ngũ quân trang quân phục thì dăm bảy tân binh người thành phố thường giãy nảy, la hét hoặc chạy cuồng lên như người bị kiến cắn, hoặc mặt tái xanh tái tử, nói không ra hơi... Vì họ đột nhiên thấy trong lưng, trong bụng, trong đũng quần một bọc chuột non đỏ hỏn, vài con đỉa nhun nhoe vòi, hoặc một con bọ nẹt xanh lè to bằng ngón tay cái... Lần khác, đang kỳ chỉnh quân một buổi tối, chính trị viên vừa bước lên bục giảng thì từ góc nào đó. Có tiếng ho khù khụ vang lên. Tiếng ho khàn khàn, rít khò khè trong họng như tiếng ho của người già mắc chứng siễn lâu năm. Chính trị viên chờ dứt tiếng ho, hội trường im lặng mới bắt đầu nói. Nhưng chỉ hai phút sau, vẫn tiếng ho đó lại cất lên, từng hồi ngắn, liên tục. Chính trị viên đặt giáo án xuống mặt bàn, nhìn mọi người. Dưới hội trường, người nọ nhìn người kia, tiếng ho lục khục, khào khào quái gở đó vẫn cứ vang lên nghe rợn cả tóc gáy.
- Tất cả các tiểu đội kiểm tra xem đồng chí nào bị suyễn cho về doanh trại nghỉ.
Có lệnh như vậy.
Các A trưởng nghi nghi hoặc hoặc nhìn vào tận miệng từng người trong tiểu đội của mình để tìm ra nguồn gốc tiếng ho quái đảm nọ. Tuy nhiên, không có một tia hy vọng nào... Mất nửa giờ, người ta mới phát hiện ra con cóc to xụ, nằm góc nhà cất tiếng ho đau khổ vì miệng nó bị khâu lại và bên trong, có một mồi thuốc lào to tổ bố...
Sau vài lần cảnh cáo. Đỏ bớt những trò tinh nghịch ấy đi.
Vũ Sinh mến anh chàng tân binh tinh nghịch vì thấy ở Đỏ một điều anh đang thiếu. Đó là sự rành mạch trong cuộc sống, sự thẳng thắn nhiều lúc quá giản đơn nhưng lại là con đường ngắn nhất tới chân lý.
Một lần, trong giờ giải lao trên thao trường. Vũ Sinh bất chợt nghe được câu chuyện về đời tư của Đỏ. Hôm đó, họ đã thực tập một bài tập nặng về xạ kích. Đại đội trưởng Vũ Sinh quyết định kéo dài giờ giải lao thêm mười năm phút nữa. Đám tân binh reo hò ầm ĩ. Tất cả kéo vào chân ngọn núi đất bên thao trường trú nắng. Bóng thông mát rượi phủ xuống mái đầu nóng rực và những gương mặt nhễ nhại mồ hôi của những người lính. Gió mang hương lúa từ phía đồng xa tới và hương bạch đàn liễu ở những trái đồi quanh quất khiến không khí nhẹ bỗng như cánh diều.
Vũ Sinh ngồi một mình sau đống cỏ khô. Dân trong xóm trại đã đánh thành đống đợi tới ngày đốt lấy tro ủ phân. Anh bỏ mũ, nheo mắt nhìn mỏm trời trên chót đỉnh những hàng thông cao vọt. Bên kia, đám tân binh đang uống nước, hút thuốc, tranh nhau xin lửa một cậu A trưởng. Họ bàn tán về đám con gái trong xóm trại. Mấy cậu trai tơ cười rinh rích. Cười to nhất lại là Đỏ.
- Mày nhát như cáy ấy - Đỏ cất tiếng nói - Đã thích thì cứ nói tuột ra rằng: Em ơi, anh xin được chết vì em đây. Em muốn sai gì anh cũng làm tất tật. Còn cái con bé Thu béo lặc lè ấy có đến, cứ đứng ngay trước cửa doanh trại, chắp tay vái: Kính thưa em, em săn đón lòng anh cảm kích lắm. Nhưng khổ nỗi anh không yêu em được. Vậy thì em lo đi tìm mối khác cho khỏi lỡ ngày lỡ buổi. Kẻo mà tuổi xuân em thổi vèo vèo qua cái cửa doanh trại này thì anh đau ruột lắm... Cứ thế có phải xong chuyện không?... Đằng này, đứa yêu cũng không dám nói rằng yêu. Đứa ghét cũng không dám nói ghét, ấp úng như ngậm hạt thị. Lúc thì trốn, lúc lại nói dối quanh là đi vắng để nó đứng rình. Ngồi trong nhà mót đái không chịu được chạy ra nhà vệ sinh, nó trông thấy be ầm lên: Anh ơi, anh nói rối em nhé... Thế có dại mặt không? Đàn ông gì cái thứ mày?... Cứ mặc quần không đáy của đàn bà lại hơn...
Cả đám cười giàn giụa.
Rồi tiếng cậu A trưởng tiếp theo:
- Cứ như Đỏ mà lại hay đấy. Hai mươi ba tuổi, hai đời vợ như chơi.
Đỏ cãi lại:
- Làm gì có hai đời? Tôi đụng tới nó lần nào mà coi là hai vợ được?... Còn chuyện các cụ cưới xin, dẫu có tới năm lần cũng coi như năm lần thịt lợn liên hoan thôi. Tôi tuyên bố rồi. Lập trường vững như bàn thạch.
Đám tân binh nhao nhao:
- Tuyên bố thế nào cơ?... Kể đi Đỏ. Kể chuyện lấy vợ của cậu đi cho anh em nghe. Thủ trưởng cho giải lao thêm mười năm phút nữa cơ mà.
Đỏ gắt:
- Kể gì kể mãi thế?... Tôi đã nói rồi.
- Làm gì mà kể mãi. Cậu mới kể một lần cho A trưởng với tớ thôi. Còn cả bọn này chưa đứa nào nghe hết.
- Đúng đấy, anh Đỏ kể đi. Để đàn em còn học tập kinh nghiệm chứ.
Đỏ dặng hắng một tiếng thật to rồi đĩnh đặc nói:
- Bố tớ có một cái lò ấp trứng vịt. Năm mười bốn tớ đã phải ra coi lò đảo trứng cho ông cụ rồi. Dạo ấy, tớ có đứa bạn gái tên là Tính. Nó với tớ cắt cỏ chăn trâu với nhau từ lúc cởi truồng lội sông cơ. Lớn lên hai đứa cùng học một lớp. Hết cấp hai, Tính ở nhà làm ruộng còn tớ lên học lớp tám trên tỉnh. Cứ vụ hè, lại về quê coi lò ấp, đảo trứng cho cụ. Tối nào cũng vậy, tớ ăn cơm trước ra nhận lò. Ông cụ về nhà ăn cơm và ngủ luôn. Khoảng chừng bảy giờ, đom đóm lập loè ngoài đồng là Tính lại ra. Hai đứa tớ nói chuyện rủ rỉ. Chẳng biết chuyện gỉ chuyện gì nhưng cứ say sưa như điếu đổ. Giá bây giờ, có ai hỏi hồi đó hai đứa nói những điều gì thì tớ chịu chết, không thể nào nhớ ra. Nói chuyện chán, lại luộc trứng ăn. Có đêm hai đứa chén hết mười năm quả. Tính bảo:
- Lấy quả hỏng mà ăn, không bố mắng chết.
Tớ lắc đầu:
- Người hơn của hay của hơn người?... Cứ chọn quả ngon nhất mà chén. Mình làm ra, mình phải ăn miếng ngon trước đã.
Hôm sau, ông cụ cằn nhằn thật nhưng tớ cứ lờ đi như không. Rồi cụ đành phải thôi... Cứ thế đến năm tớ thi hết lớp mười, tròn hai mươi tuổi. Ông cụ bảo:
- Thi xong ở nhà lấy vợ.
Mình tưởng ông cụ đã thấy hai đứa khăng khít thế thì sẽ hỏi cưới Tính nên gật đầu ngay:
- Bố no cũng vừa rồi đấy bố ạ.
Ông cụ bảo:
- Mai, mặc áo quần tề chỉnh sang thôn Hạ với tao.
Mình trợn tròn mắt lên:
- Sang thôn Hạ làm gì cơ chứ?
Ông cụ chỉ cái thúng sơn đựng cau trầu, chè thuốc đã sắm từ lúc náo đó mà mình không biết:
- Sang hỏi vợ cho mày.
Mình nghi hoặc không hiểu ông cụ định đoạt thế nào, liền hỏi:
- Ai cơ?
Thế là ông già liền dõng dạc nói:
- Hỏi con bé Thuận nhà ông Hương Mộc chứ còn ai nữa?
Mình tái người đi. Lúc đó, mình mới vỡ lẽ câu chuyện. Nhưng mình đối phó ngay. Mặc áo vào, mình dõng dạc tuyên bố:
- Con không lấy cái Thuận. Bố có đánh chết con cũng không lấy nó.
Ông cụ đứng dậy, rút cây phất trần vẫn dắt trên mái nhà đánh phựt một tiếng. Nhưng mình đã tót ra đầu ngõ rồi. Tối hôm đó mình không về. Mình đứng ở đầu làng, chờ bà mẹ. Đúng là thiếu mình, không có người trông lò thay nên bà phải đem cơm cho ông. Chờ bà đưa cơm cho ông xong, mình lẻn về nhà, ăn hết nửa nồi cơm với cá rô kho và hỏi chuyện bà cụ. Mẹ mình bảo:
- Tao biết mày với cái Tính vẫn bìu díu với nhau. Người ta bảo: Thương nhau từ thủa mười ba, khó dứt được dải áo ra mà về. Nhưng bố mày lại khác. Bố mày ngồi chung chiếu uống rượu với ông Hương Mộc bên thôn Hạ đã ba năm nay rồi. Nhất là từ độ ông bà Hương cũng mở lò ấp trứng mang tiền sang đây đặt vốn chung. Đầu năm, nhân đám giỗ ông cụ Bái, ông Hương Mộc với bố mày hẹn hò gả bán con cái, làm thông gia cho thêm gần gũi. Tao ngăn chẳng được. Tính tình bố mày, ai còn lạ ?... Trái ý là cầm chày đập vỡ bát vỡ đĩa, châm lửa đốt bếp được ngay.
Tớ đứng lên:
- Cho bố đốt cả nhà đi cũng thế thôi.
Rồi tớ phăm phăm bước ra ngõ. Tớ đi một mạch tới thôn Hạ. Đến trước cửa nhà ông Hương Mộc tớ gọi thật to:
- Cô Thuận có nhà không?
Một giọng léo nhéo bên trong đáp:
- Có nhà... Ai đấy, vào đây đã...
Nghe giọng nói cũng đủ điên tiết rồi. Tớ xẵng giọng đáp:
- Tôi không vào. Cô ra đây có chuyện cần phải nói.
Hình như cô ả thì thào gì đó với bà mẹ trong nhà ngang, rồi nát sau, mới dò dò bước ra ngõ, vừa đi vùa bứt lá dâm bụt vo:
- Anh...
Cô ả chưa kịp mở miệng chào, tớ đã nói luôn:
- Cô là cô Thuận phải không?
Cô ả bẽn lẽn cúi đầu:
- Vâng ạ.
Kỳ thực tớ lạ đếch gì cô làng. Ngày tết, mồng hai tháng chín nào, tối biểu diễn văn nghệ hoặc chiếu bóng nào trai gái hai thôn chẳng chạm mặt nhau. Hồi đó, tớ đã bảo lũ bạn trai: con bé Thuận đã cong môi lại cạn thị, mắt lúc náo cũng gườm gườm như lườm trời, mặt lại gãy thế kia thì đứa nào rước đi cho... Không ngờ, con bé đó lại rơi vào đúng tay mình. Nghĩ tới đoạn ấy, tớ cáu kỉnh nói:
- Ông cụ nhà cô hứa gả cô cho tôi có phải không?
Cô ả ngước đôi mắt cận thị, hấp háy nhìn mình. Tuồng như cô nàng vừa sợ lại vừa xấu hổ:
- Em thấy bác sang đây...
Tớ hỏi dồn:
- Thầy tôi sang nhà cô làm gì?
Con bé bắt đầu run, tay dứt lá lia lịa:
- Hình như sang hỏi, hỏi...
Tới đó, cô ả tắc tị không nói được nữa. Tớ đâm thương hại nàng. Tớ dịu giọng nói:
- Tôi chẳng thù ghét gì cô cả. Nhưng tôi với cô không thương yêu nhau, không thành vợ thành chồng được. Tôi sang nói trước với cô để cô trả lời ông cụ. Chúng ta đều là đoàn viên thanh niên, nên thẳng thắn... Thôi, chào cô tôi về...
Không chờ cô ả đáp lại, tớ cút thẳng.
Đám tân binh ngồi nghe chuyện xì xào:
- Khiếp quáquá thẳng như mực Tàu thế thì ai chịu được... Đỏ hùng hổ đáp:
- Thẳng như mực Tàu thế còn chưa ăn thua. Huống hồ quanh quéo thì chết với ông cụ. Ông cụ cứ mang trấu cau sang ăn hỏi, cứ cho cưới thật to. Ông cụ nói với họ hàng: Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Cưới vợ cho nó đã rồi nó sẽ phải yêu vợ, đẻ con... Tao đã hứa một lời với ông Hương Mộc trước thiên hạ thì nó có sáu mắt, mười hai tay cũng không chống được. Cha cha cha... Ông cụ cho ngả lợn, giã giò, quế chả, gói nem... Làm đủ hai mươi mâm cỗ ba tầng. Pháo đốt ba tràng, xác rải đầy ngõ. Nhưng tớ cứ lang thang hết nhà nọ tới nhà kia. Lúc ở làng, lúc bên nhà trọ ngoài tỉnh. Lúc nào đói quá ra đồng bới khoai nướng. Còn khi nào ông cụ giao lò ấp cho bà cụ trông tớ lẻn đến luộc một chục quả liền... Cứ như thế nửa năm, ông cụ phải chịu thua. Cô ả Thuận cắp gói áo quần về nhà bố mẹ. Còn ông cụ phải ngả lợn lần thứ hai cưới Tính cho tớ. Để đỡ thẹn, ông cụ đành nói với hàng xóm, láng giềng: thôi đất chẳng chịu trời thì trời chịu đất. Cái lý của thời mình hóa hỏng mất rồi.
Một cậu lém tán theo:
- Chính là anh hỏng chứ không phải cái lý của ông già hỏng. Đã mất công cưới, tội gì không làm chồng vài bữa chơi.
Đỏ đáp lại:
- Cậu là đểu nhé. Cậu lưu manh nhé... Phải cái đứa con gái không biết sĩ diện nó mới chịu cưới ép như vậy. Mình lại ấm ớ thì còn ra sao nữa ?... Mà thú vị gì cơ chứ ?...Tớ đã chẳng yêu, cứ gọi là trát thêm vàng tớ cũng chịu...
- Ha ha ha...
Đám tân binh cười rộ lên. Rồi anh chàng tiểu đội trưởng của Đỏ nói:
- Thằng này trông vậy mà cũng gan cóc tía đấy. Thế nào mà cô vợ mê như ăn phải bùa.
Đỏ cười:
- Cả hai đứa cùng mê nhau thì mới quyết tâm được chứ...
Vũ Sinh lắng nghe tiếng cười giòn giã của đám tân binh. Nhưng anh không cười. Câu chuyện giản dị của Đỏ đã thức tỉnh trong anh một điều giản dị mà gần chục năm trời, anh không thể nào bước qua được cái ranh giới mỏng manh của sự phân vân.
Nói đúng hơn, sự thức tỉnh đó được báo hiệu bởi cảnh sống ấm áp của cặp vợ chồng thợ rèn gần bến đò ngày kháng Pháp, vvà đã kết thúc bởi câu chuyện chân thực của cậu tân binh Đỏ. Vũ Sinh được gỡ khỏi lớp sương mù của sự mệt mề lười nhác và buồn nản. Anh biết rằng mình cần hiểu tói cội nguồn cuộc sống của mình và chịu trách nhiệm với chính nó. Từ ngày đó, hầu như rất tự nhiên, anh ly thân với vợ. Cảm giác tự ý thức tràn ngập. Nó khiến anh trở nên mạnh mẽ hơn, khao khát sống hơn bên dưới cái vỏ lặng lẽ, ưu tư thường ngày...