Chùa Thiên Ấn nằm ở độ cao khoảng 100 m trên đỉnh núi cùng tên, bao quanh là rừng cây ngút ngàn với diện tích rộng khoảng một ha.
Chùa được xây dựng vào năm 1694, hoàn thành vào cuối năm 1695 và là một trong những ngôi nhà chùa cổ nhất Quảng Ngãi. Hiện nơi này thuộc xã Tịnh Ấn Đông, TP Quảng Ngãi.
Chùa Thiên Ấn nằm ở độ cao khoảng 100 m trên đỉnh núi cùng tên, bao quanh là rừng cây ngút ngàn với diện tích rộng khoảng một ha.
Chùa được xây dựng vào năm 1694, hoàn thành vào cuối năm 1695 và là một trong những ngôi nhà chùa cổ nhất Quảng Ngãi. Hiện nơi này thuộc xã Tịnh Ấn Đông, TP Quảng Ngãi.
Con đường đi lên chùa khá gập ghềnh vì chùa nằm trên đỉnh đồi.
Theo huyền sử, ban đầu núi Thiên Ấn có rất nhiều thú rừng, cọp, người dân chỉ nhặt củi dưới núi. Một hôm, đoàn người phát hiện con đường mòn lên núi, khi đi theo họ gặp thiền sư Pháp Hóa, vị tổ sư đã dựng thảo am nơi đây và tu thiền. "Ở ngài toát lên lòng từ bi và trí huệ, ngài đã giảng cho người dân về đạo Phật và lẽ nhân sinh. Càng về sau nhiều người dân đến thảo am để nghe giảng Phật pháp", hòa thượng Thích Đồng Hoàng, Phó trụ trì chùa kể.
Danh tiếng ngôi chùa và vị thiền sư lan truyền đến chúa Nguyễn Phúc Chu, một người sùng đạo Phật. Năm 1717, chúa đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc Tứ Thiên Ấn Tự”.
Con đường đi lên chùa khá gập ghềnh vì chùa nằm trên đỉnh đồi.
Theo huyền sử, ban đầu núi Thiên Ấn có rất nhiều thú rừng, cọp, người dân chỉ nhặt củi dưới núi. Một hôm, đoàn người phát hiện con đường mòn lên núi, khi đi theo họ gặp thiền sư Pháp Hóa, vị tổ sư đã dựng thảo am nơi đây và tu thiền. "Ở ngài toát lên lòng từ bi và trí huệ, ngài đã giảng cho người dân về đạo Phật và lẽ nhân sinh. Càng về sau nhiều người dân đến thảo am để nghe giảng Phật pháp", hòa thượng Thích Đồng Hoàng, Phó trụ trì chùa kể.
Danh tiếng ngôi chùa và vị thiền sư lan truyền đến chúa Nguyễn Phúc Chu, một người sùng đạo Phật. Năm 1717, chúa đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc Tứ Thiên Ấn Tự”.
Cổng tam quan chùa với nhiều họa tiết tinh xảo như rồng chầu nguyệt, thần Hộ pháp.
Khu viên mộ, nơi an táng của các vị sư tổ, thiền sư trụ trì và những ngôi bửu tháp có hình hoa sen được xây dựng ở phía đông trong khuôn viên chùa.
Khu viên mộ, nơi an táng của các vị sư tổ, thiền sư trụ trì và những ngôi bửu tháp có hình hoa sen được xây dựng ở phía đông trong khuôn viên chùa.
Chùa gắn liền với tích "chuông thần, giếng Phật". Giếng Phật trong chùa ngày nay vẫn giữ được những nét kiến trúc cổ kính.
Tương truyền, do phật tử lên núi ngày càng đông, vị sư trụ trì đã nghĩ cách đào giếng. Nhà sư được báo mộng khi đào ở phía đông chùa sẽ gặp tảng đá bàn, dưới tảng đá này sẽ có nước. Nhưng việc cạy tảng đá rất khó khăn, lúc đó có một vị sự trẻ đến chùa nói sẽ giúp việc đào giếng. Khi mạch nước ngầm phun lên, vị sư già vục mặt, uống thỏa thích, bình tâm lại thì không thấy vì sư trẻ đâu cả. Về sau dân gian lưu truyền hai câu thơ: “Ông thầy đào giếng trên non/Đến khi có nước không còn tăm hơi”.
Chùa gắn liền với tích "chuông thần, giếng Phật". Giếng Phật trong chùa ngày nay vẫn giữ được những nét kiến trúc cổ kính.
Tương truyền, do phật tử lên núi ngày càng đông, vị sư trụ trì đã nghĩ cách đào giếng. Nhà sư được báo mộng khi đào ở phía đông chùa sẽ gặp tảng đá bàn, dưới tảng đá này sẽ có nước. Nhưng việc cạy tảng đá rất khó khăn, lúc đó có một vị sự trẻ đến chùa nói sẽ giúp việc đào giếng. Khi mạch nước ngầm phun lên, vị sư già vục mặt, uống thỏa thích, bình tâm lại thì không thấy vì sư trẻ đâu cả. Về sau dân gian lưu truyền hai câu thơ: “Ông thầy đào giếng trên non/Đến khi có nước không còn tăm hơi”.
Giếng sâu khoảng 21 m, đường kính hơn 2 m, xây dựng bằng đá ong.
Quả chuông lớn trong chùa được đúc ở làng Chí Tượng, nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức.
Tương truyền, quả chuông này đúc xong, đánh không kêu. Năm 1845, thiên sư Bảo Ấn, tổ sư thứ ba của chùa đang thiền thì thấy có một vị hộ pháp báo mộng tới làng Chí Tượng thỉnh quả chuông về. Sau thiền sư cầu nguyện, tiếng chuông đã vang khắp cả vùng.
Quả chuông lớn trong chùa được đúc ở làng Chí Tượng, nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức.
Tương truyền, quả chuông này đúc xong, đánh không kêu. Năm 1845, thiên sư Bảo Ấn, tổ sư thứ ba của chùa đang thiền thì thấy có một vị hộ pháp báo mộng tới làng Chí Tượng thỉnh quả chuông về. Sau thiền sư cầu nguyện, tiếng chuông đã vang khắp cả vùng.
Hoa văn hình rồng được trạm trổ tinh xảo trên đỉnh chuông.
Chùa Thiên Ấn là nơi linh thiêng được người dân Quảng Ngãi thăm viếng vào các dịp rằm, mùng một, Tết Nguyên đán.
Năm 1990, ngôi chùa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Chùa Thiên Ấn là nơi linh thiêng được người dân Quảng Ngãi thăm viếng vào các dịp rằm, mùng một, Tết Nguyên đán.
Năm 1990, ngôi chùa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Tượng Phật trong khuôn viên chùa.
Đây từng là nơi đàm đạo, xướng họa thơ ca của nhiều thi sĩ.
Gần chùa, du khách có thể tới viếng mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng, chí sĩ yêu nước, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nằm trên đỉnh Thiên Ấn.
Gần chùa, du khách có thể tới viếng mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng, chí sĩ yêu nước, Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nằm trên đỉnh Thiên Ấn.
Hữu Khoa - Linh Phạm