Theo khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
Đối với việc kết hôn mà không đăng ký theo quy định, Điều 14 Luật này quy định như sau: Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Quyền, nghĩa vụ với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này. Cụ thể như sau:
Điều 15: Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, sẽ được giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.
Điều 16: Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
Để bảo vệ quyền lợi của mình, bạn có quyền khởi kiện vụ án ly hôn, yêu cầu tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng (Đây cũng là thủ tục bắt buộc để chấm dứt quan hệ hôn nhân).
Trường hợp vợ chồng bạn có yêu cầu về con (giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng) và chia tài sản thì tòa án sẽ giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 nói trên.
Đối với sính lễ (tiền, vàng, đá quý...) mà nhà chồng đã cho bạn khi tổ chức hôn lễ thì đây là giao dịch dân sự tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên có hiệu lực ngay khi bạn nhận tài sản. Do vậy, không có căn cứ để nhà chồng đòi lại sính lễ đã tặng cho bạn.
Luật sư Vũ Tiến Vinh
Công ty Luật Bảo An, Hà Nội