Hai anh em đều thích làm bếp, thích tự mình tạo ra món ăn. Ăn không hết, chúng gói ghém mang đi tặng bạn bè, hàng xóm. Hoàn cảnh gia đình khiến tôi luôn dạy con "ăn bữa nay, lo bữa mai", "no lòng mình nhớ người còn đói dạ".
Bằng tuổi Cuội và Khoai, tôi chỉ mong đến... đám giỗ cụ nội, vì đó là dịp hiếm hoi trong năm lũ trẻ chúng tôi được ăn uống thỏa thích. Ông tôi thấy thế thường mắng: "Ăn như chết đói". Và năm nào cũng vậy, trong đám giỗ, trước khi mâm bàn được đặt xuống, ông tôi sẽ kể cho chúng tôi nghe về nạn đói năm 1945, khiến ông mất cả cha lẫn mẹ.
Ông nội tôi trở thành chứng nhân Ất Dậu vào năm 15 tuổi. Lúc bấy giờ, làng đã có nhiều người chết đói, trong nhà không còn thứ gì có thể ăn được nên hai cụ dắt ông nội tôi theo dòng người từ Thái Bình qua Nam Định để "xin ăn". Giữa đường cụ ông chết, ông tôi vuốt mắt cha rồi chôn cất ở cánh đồng. Đến thành phố Nam Định, cụ bà không trụ nổi và được "mai táng" ở một hố chôn tập thể.
Câu chuyện của ông ám ảnh tôi cả một thời trẻ nít, nên một hạt cơm rơi khỏi bát, một hạt thóc rớt ra khỏi bồ, tôi cũng biết nhặt trở lại.
Sau này đi học, tôi biết thêm về nạn đói Ất Dậu qua sách sử và các tác phẩm văn học. Trong truyện ngắn "Vợ nhặt", nhà văn Kim Lân mô tả cảnh tượng thê lương tới mức: "Người chết như ngả rạ". Còn nhà văn Tô Hoài trong "Chuyện cũ Hà Nội" viết: "Nói bao nhiêu về cảnh đói 1944-1945 cũng vẫn chưa thấm. Chữ nghĩa tôi run rẩy, thổi bay được. Khủng khiếp quá".
Cuốn sách "Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử" của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Motoo còn có những mô tả chi tiết và trực diện hơn. Đó là cảnh tưởng xác người chết đói nằm rải rác bên đường, trong chợ... mùi tử khí nồng nặc, u uất cả đất trời. Có những nơi ở quê tôi - Thái Bình, hơn một nửa số dân của xã chết đói, trong đó rất nhiều gia đình chết cả nhà, cả dòng họ.
Nghĩ đến cảnh hai cụ của mình bị cái đói dày vò, thân thể co rút rồi chết không nhắm được mắt mà lòng tôi xót thương, quặn thắt. Cái chết thống khổ và ai oán. Theo sử sách, hai triệu đồng bào đã phải trải qua cái chết từ từ, đau đớn như thế.
Tác phẩm của GS. Văn Tạo và GS. Furuta Motoo không chỉ khắc họa chân thực bức tranh kinh hoàng của nạn đói năm Ất Dậu mà còn lột tả tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Chính sách vơ vét, thu gom lương thực tàn bạo, vô nhân tính để phục vụ cỗ máy chiến tranh của Nhật - Pháp đã đẩy hàng triệu người Việt Nam rơi vào thảm kịch.
Ông nội tôi trụ được qua cái đói nhờ sức vóc của đứa trẻ 15 tuổi, nhưng trở thành đứa trẻ mồ côi, tha hương cầu thực với nỗi ám ảnh khôn cùng khi bất lực chứng kiến cả cha lẫn mẹ mình ra đi trước mắt.
Giữa lúc dân ta sức cùng, lực kiệt, Mặt trận Việt Minh lãnh đạo cuộc Cánh mạng Tháng Tám phá hàng trăm kho thóc Nhật chia cho dân nghèo cứu đói. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hồ Chủ tịch đã phát động phong trào "Hũ gạo cứu đói", "Ngày Đồng tâm", đồng thời có những biện pháp kịp thời để khôi phục sản xuất nông nghiệp. Nhờ đó mà nạn đói được đẩy lùi, hàng triệu người như ông tôi được cứu sống.
Ông nội tôi luôn kết thúc chuyện xưa bằng câu: Nếu không có Cách mạng Tháng Tám thì chưa chắc ông còn sống, chưa chắc có bố con cháu ngày nay. Các cháu phải biết quý hạt cơm hạt gạo, củ khoai.
Giá trị của lịch sử chính là những bài học. Từ thảm họa nạn đói Ất Dậu 1945, Việt Nam có được bài học xương máu về an ninh lương thực. Xóa đói, giảm nghèo trở thành mục tiêu xuyên suốt, quan trọng hàng đầu trong hành trình dựng nước và giữ nước về sau. Từ những phong trào tăng gia sản xuất sau Cách mạng Tháng Tám đến những chính sách đổi mới nông nghiệp trong thập niên 1980, Việt Nam từng bước vượt qua cảnh thiếu đói, vươn lên thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu.
Nhưng Việt Nam cũng đang đối mặt với vấn đề đáng cảnh báo về tình trạng lãng phí lương thực trong bối cảnh bùng nổ của chủ nghĩa tiêu dùng. Một báo cáo năm 2024 của Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc - FAO cho thấy: Việt Nam đứng thứ 12 khu vực châu Á - Thái Bình Dương về GDP, nhưng đứng thứ hai về lãng phí thực phẩm, với gần 4 tỷ USD (khoảng 2% GDP) mỗi năm, tương đương 8-8,8 triệu tấn thực phẩm bị thất thoát hoặc đổ bỏ.
Dù đã trở thành cường quốc lương thực, thì cái đói dinh dưỡng, cái nghèo vẫn hiển diện đâu đó trên đất nước này. Tôi đi công tác nhiều nơi, đến những vùng sâu, vùng xa, vẫn thấy những đứa trẻ thiếu sữa, thiếu thịt cá, thiếu cả áo quần và trường lớp...
Với dân số hơn 100 triệu người, việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là vấn đề trọng yếu, không được phép chủ quan, lơ là. Chống lãng phí, trân quý thực phẩm, quý trọng tài nguyên, từ đất đai, nước đến khoáng sản vì thế là những việc làm cần thiết không chỉ đối với từng người dân mà còn là bài toán của các nhà hoạch định.
Bùi Võ