Quan điểm trên được chuyên gia tài chính ngân hàng Hồ Sỹ Thụy nêu trong bài viết gửi tới VnExpress. Dưới đây là nội dung bài viết của ông.
Ngân hàng và người vay vốn đang chờ đợi bước đi tiếp theo trong điều hành chính sách lãi suất, sau khi Ngân hàng Nhà nước đã mở rộng cơ chế lãi suất thỏa thuận với khoản vay trung dài hạn.
Theo quy định tại điều 476 Bộ Luật Dân sự, lãi suất cho vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Quy định này thực ra không nhằm áp đặt chế độ trần lãi suất đối với các tổ chức tín dụng, mà đưa ra mốc lãi suất để chống cho vay nặng lãi. Nghị quyết số 23 do Quốc hội ban hành 6/11/2008 mở ra cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với một số dự án sản suất - kinh doanh hiệu quả cao. Phần lớn các khoản vay khác vẫn phải chấp hành chế độ trần lãi suất.
Chế độ trần lãi suất đã có tác dụng tích cực đối với kinh tế-xã hội thời gian qua. Vấn đề hiện nay là có cần thiết phải tiếp tục khống chế lãi suất cho vay của các ngân hàng bằng chế độ trần lãi suất, hay thay bằng việc mở rộng hơn nữa phạm vi cho vay vượt trần lãi suất rồi trở lại tự do hoá hoàn toàn lãi suất?
Luật Ngân hàng Nhà nước hiện hành không ràng buộc tỷ lệ giữa lãi suất cho vay của ngân hàng và lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Hơn nữa, các tổ chức tín dụng quan tâm nhiều hơn tới việc điều hành các công cụ như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc... Vì vậy, để có chế độ tự do hoá trên thực tế (mặc dù về hình thức vẫn còn chế độ trần) đối với lãi suất của các tổ chức tín dụng, không cần sửa đổi điều 476 nêu trên cũng như Luật Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cơ bản.
Ngân hàng Nhà nước chỉ cần ấn định lãi suất suất cơ bản ở mức đủ lớn, có thể là tương đương mức trung bình hoặc trung bình tiên tiến của các mức lãi suất cho vay ở kỳ trước của hệ thống ngân hàng. Làm như vậy, ngoài việc tạo ra (trên thực tế) chế tự do lãi suất đối với các tổ chức tín dụng, còn làm cho lãi suất cơ bản vừa là cái mốc chống cho vay nặng lãi vừa có ý nghĩa thống kê, phản ánh cung cầu vốn trên thị trường.
![]() |
Lãi suất thỏa thuận tiện cho ngân hàng, song có thể đẩy khách hàng vào thế khó. Ảnh minh họa: Hoàng Hà |
Tất nhiên, nếu không còn mức trần, lãi suất cho vay cũng chỉ cao đến mức nào đó thì dừng, rồi sau đó tự động hạ xuống. Song đến khi đó nền kinh tế đã lĩnh đủ hậu quả mà lãi suất cao gây ra.
Theo báo cáo về tình hình lãi suất tuần 5–11/3 của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay trung, dài hạn theo cơ chế thỏa thuận khoảng 14-15%/năm đối với nhóm ngân hàng thương mại nhà nước, khoảng 15-17%/năm đối với nhóm cổ phần, cá biệt một số ngân hàng quy mô nhỏ cho vay với lãi suất khá cao khoảng 18-20%/năm. So với báo cáo tuần trước đó, lãi suất cho vay thỏa thuận vẫn đang có chiều hướng tăng chứ chưa phải đã dừng lại.
Nếu tự do hoá hoàn toàn lãi suất lúc này, vấn đề không phải chỉ ở chỗ lãi suất cho vay dừng lại hay không, mà còn e ngại rằng mức 18-20% sẽ trở thành lãi suất phổ biến của các tổ chức tín dụng. Và nếu các tổ chức tín dụng thả phanh nâng lãi suất tiền gửi thì chỉ người gửi tiền là có lợi, nhưng doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ chịu thiệt. Bản thân các tổ chức tín dụng chưa hẳn đã thu nhiều mà có thể phải đối mặt với rủi ro lớn hơn.
Nếu các điều kiện khác không đổi, mỗi đơn vị phần trăm cộng vào hay trừ đi trong lãi suất vốn vay sẽ làm trừ đi hay cộng vào trong tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (hay của dự án đầu tư) một con số phần trăm bằng tỷ lệ giữa vốn vay so với vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (hay của dự án đầu tư). Chẳng hạn, nếu tỷ lệ vốn vay tổ chức tín dụng trên vốn chủ sở hữu là 3/1, thay vì vay với lãi suất trần 12%/năm, các doanh nghiệp, dự án đầu tư phải vay với lãi suất thoả thuận 18% sẽ làm mất đi một tỷ suất lợi nhuận = [(18%-12%) x 3/1] và nếu phải vay với lãi suất thoả thuận 20%/năm sẽ mất đi một tỷ suất lợi nhuận là 24% mỗi năm.
Bởi vậy, có thể đang từ việc đạt được mức tỷ suất lợi nhuận trung bình, doanh nghiệp, dự án đầu tư trở thành lỗ. Có nhiều doanh nghiệp, dự án đầu tư có tỷ lệ vốn vay tổ chức tín dụng trên vốn chủ sở hữu lớn.
Việc song hành hai chế độ lãi suất cho vay theo trần và vượt trần, thực tế đã chứng tỏ mặt trái của nó, đó là các hành vi lách luật hay các hành vi tiêu cực cùng với mức lãi suất cho vay có khi cao tới 18%-20%, thậm chí có thể còn hơn. Khi phạm vi được phép cho vay vượt trần còn hẹp, các hành vi lách luật hay tiêu cực cũng ở phạm vi hẹp, tác động tiêu cực đối với nền kinh tế còn ít, nhưng sẽ tăng lên theo sự mở rộng phạm vi được phép cho vay vượt trần lãi suất. Hiện nay, thị phần được phép cho vay vượt trần lãi suất chỉ chiếm khoảng 40%, bao gồm phần cho vay phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho vay trung-dài hạn sản xuất-kinh doanh.
Nếu tiếp tục mở rộng thêm phạm vi được phép cho vay vượt trần lãi suất ra các khoản cho vay ngắn hạn sản xuất-kinh doanh có hiệu quả thì coi như lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đã được tự do hoá. Trong đó, cho vay ngắn hạn sản xuất -kinh doanh không có hiệu quả, do chỉ còn mình nó là vẫn thực hiện chế độ trần lãi suất, trở thành như cho vay “đối tượng chính sách”. Điều này khó tránh khỏi phát sinh các tiêu cực mới.
Lãi suất cho vay ở đầu ra của các tổ chức tín dụng được tự do vượt trần, còn lãi suất tiền gửi ở đầu vào bị khống chế thì trước hết làm lợi cho các tổ chức tín dụng. Vì là hoạt động kinh doanh với mục đích lợi nhuận, các ngân hàng thương mại dễ theo đuổi việc tối đa hoá tỷ suất lợi nhuận. Nếu Ngân hàng Nhà nước khống chế lãi suất tiền gửi một cách hiệu quả bằng biện pháp hành chính thì tại sao Ngân hàng Nhà nước không thể kiểm soát đối với cả lãi suất cho vay?
Tất nhiên, giải pháp nào cũng có mặt trái, chỉ ít hay nhiều, đánh đổi được hay không đánh đổi được. Tiếp tục thực hiện kiểm soát bằng biện pháp hành chính hay thực hiện tự do hoá đối với lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đang là sự lựa chọn mà Quốc hội đã trao quyền cho Ngân hàng Nhà nước. Chắc sớm muộn sẽ rõ. Song nếu không đảm bảo đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế của năm 2010 và tạo đà cho tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo thì không thể nói đến sự thành công trong điều hành chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước.
Hồ Sỹ Thụy