![]() |
|
Chứng phình giãn tĩnh mạch (Sức Khỏe & Đời Sống). |
Chân to do các bệnh về tim mạch
Viêm tắc tĩnh mạch: Gặp ở phụ nữ sau sinh hoặc sảy thai; sau phẫu thuật các cơ quan ở khung chậu, nhiễm khuẩn thương hàn, đinh râu hoặc trong bệnh suy tim, gầy mòn, ung thư làm tắc tĩnh mạch. Bệnh nhân sốt 37-38 độ C, mạch nhanh, đau nhiều ở bụng chân khi bóp. Chân phù trắng từ mắt cá đến đùi, phù căng bóng, chắc, ấn lõm, màu da tái nhợt, phù diễn biến từ từ dẫn tới phù cứng, không đau, tỷ lệ Prothrombin cao. Có thể tràn dịch khớp gối. Biến chứng là tắc tĩnh mạch và nhồi máu phổi (gặp 5-6% viêm tắc tĩnh mạch).
Bệnh chân voi: Là bệnh tắc hệ bạch mạch do giun chỉ. Phù chi dưới rất to, phù cứng, ấn không lõm, không đau, da rất dày, biến dạng. Phù có thể lan sang bộ phận sinh dục, có thể tràn dịch màng tinh hoàn, da bìu cũng xơ cứng, xù xì. Tiểu ra dưỡng chất. Sinh thiết da: Tăng sinh tổ chức liên kết, có hiện tượng chèn ép ống bạch mạch. Chỗ tắc có thể thấy giun chỉ. Trong tiền sử có viêm bạch mạch, thử máu ban đêm có thấy giun chỉ.
Phình giãn tĩnh mạch: Thường gặp ở người đứng tuổi, người ít vận động, phụ nữ bị nhiều hơn nam giới. Khởi đầu một thời gian dài không có triệu chứng, sau có cảm giác "nặng" hai chân. Triệu chứng càng rõ khi đứng hoặc ngồi lâu: mau mệt khi đi, khi vận động; có chuột rút ban đêm. Bệnh nhân đứng thấy tĩnh mạch nổi rõ, có những mao mạch nổi ở dưới da. Có thể thấy tĩnh mạch ngoằn ngoèo từng búi. Có thể to hai chân, hoặc một bên to, bên kia nhỏ hơn. Giai đoạn mất bù có đau dữ dội, da rất ngứa, có biến chứng loét da ở chân, rất khó điều trị.
Viêm bạch mạch: Ở thể cấp tính (viêm bạch mạch lan rộng), phản ứng toàn thân rất rõ sốt rét run, tại chỗ chân phù, các hạch bạch huyết ở đùi sưng to và đau. Thể mạn tính là hậu quả của những thời kỳ viêm mạch bạch huyết cấp tính tái phát. Có loại viêm bạch mạch lan tràn, có loại chỉ viêm ống bạch huyết.
Chứng giãn tĩnh mạch phì đại: Có các triệu chứng là phình giãn tĩnh mạch chủ yếu một chi, thường ở cẳng chân. Phần mềm, cơ, tổ chức dưới da phù nề, phì đại, xương cẳng chân cũng to ra. Da phù, dày cộm, thô ráp, nhăn nheo. Đây là bệnh bẩm sinh, thường được phát hiện sớm. Đôi khi có thêm một số dị tật khác như mất xương sườn số 1, rò động - tĩnh mạch.
Chân to do các bệnh về xương, cơ
Viêm cơ: Hay gặp ở người suy mòn, đái tháo đường, sức miễn dịch kém. Bệnh thường do tụ cầu vàng gây ra, gặp ở vùng nhiệt đới. Nếu do liên cầu khuẩn, bệnh hay gây hội chứng sốc. Bệnh nhân sốt cao, đau vùng cơ viêm, chân không cử động được, có khi từng nhóm cơ mất cử động. Đùi to ra, dân gian gọi là bị "lên bắp chuối" ở chân.
U cơ: Có hai loại là u tổ chức đệm và u tổ chức liên kết. Bệnh thường gặp ở nam giới từ độ tuổi 40-50, tiến triển từ từ ở những cơ sâu. Triệu chứng đau là chủ yếu. Có hiện tượng u bành trướng ra các cơ khác, chân to ra. Tổ chức dưới da bị thâm nhiễm, chèn ép, gây phù nề, xơ cứng. Có phản ứng màng xương dày lên. U cơ di căn vào các tổ chức hạch bẹn, bụng. Bệnh tiến triển 2-3 năm thì gây tử vong.
Cốt tủy viêm: Thường do tụ cầu vàng, hay gặp ở trẻ em suy dinh dưỡng, sức đề kháng kém, người có ổ nhiễm khuẩn mủ, mụn nhọt, viêm amiđan có mủ, có thể viêm xương sau gãy xương hở. Bệnh khởi phát rầm rộ: sốt cao, rét run, bạch cầu tăng cao, có khi co giật. Da ở vùng sưng viêm tấy đỏ, tăng nhiệt. Đau tăng khu trú vào chỗ tổn thương, nên người bệnh phải nằm ở tư thế nửa gấp. Cơ co cứng, không cử động được. Khi có mủ thì màng xương bị phá thủng, mảnh xương chết được đùn ra ngoài theo lỗ rò. Có thể tràn dịch khớp gối, dần chuyển sang giai đoạn mạn tính. Lớp xương mới bồi đắp chồng lên nhau như vỏ củ hành. Có khi xương to gấp đôi xương bình thường, làm chân càng to. X-quang thấy xương mất chất canxi, màng xương bong tách vồng lên, lớp xương mới hình thành ở trong màng xương, có hình mảnh xương chết nằm trong vùng tổn thương.
Ung thư xương trẻ em: Gặp 95% trẻ em dưới 20 tuổi. Tỷ lệ nam gấp 2-3 lần nữ. Bệnh nhân sốt cao 37-38 độ C. Bạch cầu tăng, gầy yếu, sút cân. Đau trong xương tăng dần đến đau dữ dội. Chân to, da và tổ chức dưới da ít thay đổi. X-quang thấy xương to, có những đường dọc theo xương như bao củ hành. Bệnh tiến triển từ 6 tháng đến 5 hoặc 6 năm. Dù có cắt cụt chân sớm thì một thời gian sau, u lại tái phát hoặc di căn sang phổi, não.
Ung thư xương đùi: Thể trạng suy sụp nhanh. Vị trí hay gặp là các xương dài gần đầu gối, xa khuỷu tay. Tại vùng có u nổi to rất đau, hạn chế vận động. Trên da có hiện tượng chèn ép tĩnh mạch, bạch mạch. U chèn vào dây thần kinh gây đau, đôi khi có tràn dịch khớp gối. Một chấn thương nhẹ có thể làm gãy xương. X-quang có hiện tượng xương bị phá hủy, xương to, có nhiều thớ dọc, màng xương bị phá hủy. Biến chứng di căn vào phổi.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
