Hồ Anh Thái
Nước giếng trong có lẽ là bài hội tụ nhiều dấu ấn của Cao Huy Thuần. Tác giả băn khoăn về một câu trong bài ca dao Lính thú đời xưa: ...Ba năm trấn thủ lưu đồn/ Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan/ Chém tre đẵn gỗ trên ngàn/ Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai/ Miệng ăn măng trúc măng mai/ Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng/ Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng. Thắc mắc là ở câu cuối. Tác giả lấy giọng của một độc giả bất kỳ mà bảo: "Câu thơ thật lạ kỳ, như ở đâu bay vào bài thơ, lạ hoắc, lãng xẹt". Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng. Thế là ta bắt đầu chia sẻ nỗi băn khoăn thắc mắc của tác giả. Ta để cho Cao Huy Thuần dẫn dắt trong cuộc truy tìm lý do có mặt của câu thơ nọ. Ông dẫn ta đi loanh quanh thế nào mà lạc vào thế giới thiền, gặp những Bồ Tát, những thiền sư từ thời nảo thời nào. Rồi bất ngờ, ông đặt vào miệng họ cái câu: Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng! Thậm chí chỉ là bật lên: Nước giếng trong! Thậm chí chỉ là quát lên: Nước!
Tiếp tục tóm lược hành trình lý giải một câu thơ của Cao Huy Thuần, tức là ta rất dễ rơi vào tình trạng mà chính tác giả đã phản đề: các vị thiền sư điên hết cả rồi sao? Vậy thì ta sẽ không tóm lược, ta phải đọc bài Nước giếng trong bằng mắt của chính mình. Rất dễ hiểu. Đọc hết bài, dần dần đã thấy hiện lên gương mặt tác giả.
Đấy là một nhà giáo. Bình giảng thơ rõ ràng, khúc chiết, dẫn dắt tuần tự với những thao tác khoa học, những sự gia giảm liều lượng vừa đủ hợp lý.
Đấy là một nghệ sĩ có sự nhập thân vào nhân vật vào tác phẩm, sự rung động tinh tế với câu chữ, dẫn đến một kết cục bất ngờ và rất "nghệ".
Đấy là một thiền sư. Những hiểu biết tôn giáo và những trải nghiệm đã hài hòa đến mức như cá bơi lội nhẹ nhàng trong nước.
![]() |
Trang bìa cuốn sách. |
Từ chuyện học giả Hoàng Xuân Hãn lên chùa, mà Cao Huy Thuần ngẫm ngợi: "Nhà nho lên chùa? Đúng là tinh túy của văn hóa Việt Nam! Thời trẻ, Nho quỳ trước vua, trung hiếu tiết nghĩa. Bạc đầu, nho tìm cửa Phật, sắc sắc không không. Nho chưa thấy Phật lúc tuổi còn xanh vì con người trong Nho là con người xã hội; Nho chỉ thấy mình, hiểu mình và định nghĩa mình trong quan hệ với người khác: quan hệ họ hàng, quan hệ làng nước, quan hệ đỗ đạt, quan hệ lễ nghĩa, quân quân thần thần phụ phụ tử tử, cư xử sao cho đúng vị trí của mình đủ làm người quân tử mệt phờ râu. Khi Nho hết quay cuồng với hình bóng của mình trong con mắt của xã hội, lúc đó Nho mới giật mình nhận ra rằng mình có mối quan hệ khác nữa mà mình không hay: quan hệ của mình với mình. Nhìn ai cũng dễ, nhìn mình mới khó; nhưng đến một lúc nào đó rồi ai cũng phải nhìn mình, kể cả tên sát nhân, và nếu nhìn giỏi thì chẳng thấy mình đâu nữa, chỉ thấy Phật" (Bác Hãn lên chùa).
Những lập luận đậm triết lý nhà Phật có ở trong tất cả những bài viết, những tiểu luận, những bài điểm sách. Đây là đoạn viết về Sư Bà Diệu Không: "Sinh trưởng trong một gia đình quyền quý, lấy chồng và chồng mất rất sớm, bà mẹ đó đã nuôi trọn vẹn năm con của chồng như con ruột của mình trước khi xuất gia... Tôi đọc đâu đó trong kinh sách về Bồ Tát: Bồ Tát sống giữa đời, như mọi người, như người đời, chỉ khi nào đi mất, mọi người mới ngẩn ngơ, thì ra mình đã sống bên cạnh Bồ Tát mà không hay... Cũng vậy, có lẽ khi Sư Bà rời khỏi Hồng Ân rồi, các sư cô mới bảo nhau: Ơ kìa, mình vừa ở với ai như với một Bồ Tát. Nay mai, tôi về thăm lại Hồng Ân, con nhạn đã bay qua rồi, không còn để lại vết gì trên trời, nhưng tôi sẽ nói với các sư cô rằng chính vì không còn vết gì trên trời nữa, cho nên tôi mới biết có con nhạn vừa bay qua. Chính vì Bồ Tát đã đi rồi, cho nên mới có Bồ Tát" (Sư Bà).
Chi tiết Bồ Tát đi qua là của một người hiểu giáo lý nhà Phật. Chi tiết con chim nhạn vừa bay qua là của một nghệ sĩ. Hay là cả thế này và cả thế kia.
Nói đến khía cạnh nghệ sĩ và văn chương, Nắng và hoa có văn chương đẹp, đẹp chỉnh đốn. Một nhà giáo có tư chất văn sĩ. Những tác phẩm mang tính hư cấu bộc lộ tư chất này. Chẳng hạn, Tôi ở bên này, tôi ở bên kia (hình như là bán tự truyện, hay là cách nhập thân của tác giả khiến người đọc cảm thấy thế?). Chẳng hạn, Một buổi chiều tháng sáu. Bao nhiêu cái ngẫu nhiên dồn dập trong buổi chiều ấy, bao nhiêu cái "giá như" ân hận xót xa, bao nhiêu truy tìm nguyên cớ theo chiều dọc chiều ngang, bao nhiêu đời kiếp. Giây phút này ta đang sống, nhưng đâu biết ta đang đồng thời gây hại cho ai, đang cứu vớt ai ai? Một câu chuyện nhỏ đã nối một cá thể với nhân loại. Triết học Phật giáo bộc lộ ra dưới từng lớp lang câu chuyện: một hạt bụi nhỏ cũng có mối quan hệ qua lại với cả vũ trụ.
Cao Huy Thuần là cây bút hóm hỉnh. Thảng hoặc đây đó tác giả có những lúc mỉm cười hoặc bật cười dí dỏm. Người đọc lập tức được nhắc nhở rằng một ông giáo, một bậc tu hành cũng nhiều lúc cười, mà cười rất thật.
"Tôi được thầy Chơn Thiện cho ăn cơm chay tại chùa Tường Vân... Tôi đang chú tâm thưởng thức đĩa rau câu thì một đoàn đông đảo sư cô đến xin gặp thầy Chơn Thiện để hỏi về kỳ thi tuyển sắp mở. Thấy các cô lo lắng quá, thầy trấn an: "Các cô đậu hết!" Các cô vui vẻ, hớn hở, đội nón lên, quay về Hồng Ân, trả đĩa rau câu lại cho tâm của tôi" (Sư Bà). Không khí nhà chùa, nói chuyện ẩm thực, độc giả lập tức nhớ một điều rằng chẳng phải cứ ở nhà chùa là không thích ăn ngon. Ở trước, tác giả đã ăn một cách chú tâm thì sau đó đĩa rau câu được trả lại cho cái tâm của ông. Hài hước mà vẫn là cách hài hước của nhà Phật.
Tác giả hay hài hước với chuyện ẩm thực. Trong truyện Một buổi chiều tháng sáu, nhân vật chính đang sống xa quê hương, thích tiết canh vịt, lại được gọi đi ăn tiết canh đúng vào buổi chiều hẹn với vợ đi mua quà sinh nhật cho đứa con đầu, "thế này thì rắc rối thật rồi, thì phải lựa chọn giữa em với tiết vịt rồi!". Còn trong thiên hồi ức Một nửa của tôi, chàng thiếu niên học ở trường Khải Định (tên của trường Quốc Học lúc đó) ngày ngày cứ phải sang bên trường Đồng Khánh (trường nữ) để ăn trưa với bà giám thị là người nhà. Một mình đi từ trường nam sang trường nữ, hành trình thẹn thùng đi ăn trưa của chàng thiếu niên dẫn đến một ý nghĩ: "áp dụng triệt để câu nói bất hủ của hoàng đế Bảo Đại: Trẫm thà làm dân (đói) trong nước Khải Định độc lập hơn làm vua (no) trong nước nô lệ Đồng Khánh".
Đọc Nắng và hoa, tôi hình dung ra đôi nét chân dung tác giả Cao Huy Thuần như vậy. Cứ bằng kiến thức triết học Phật giáo mà ông rất thấm nhuần, có lẽ ông sẽ thấy chân dung đó là mình mà chẳng phải mình. Ông đã từng bảo: "Tôi vốn không bao giờ cãi khi người khác nói tôi thế này thế nọ. Không cãi vì cãi là mắc vào cái bẫy. Cái bẫy của chữ là. Tôi không trắng, không đen, cũng không vừa không đen, không trắng. Nhưng tôi cũng có trắng, có đen mà không phải là dơi chuột. Là cái gì, tùy bạn. Tôi chỉ biết rằng tôi như thế thì tôi nhẹ nhàng trong cuộc đời. Như mây".
Nhẹ nhàng. Đấy là mong muốn của Cao Huy Thuần mà cũng là của nhiều người.
(Nguồn: Người Đại Biểu Nhân Dân)