Trên mạng xã hội, người Trung Quốc kêu gọi nhau xem phim với hashtag "giương cao quốc kỳ vì thành công phòng vé của Na Tra". Cục Quản lý Điện ảnh Quốc gia và chính quyền một số địa phương như Quảng Đông, Hồ Bắc hay Giang Tô nhanh chóng kích cầu tiêu dùng bằng cách cùng các ngân hàng, nền tảng bán vé trực tuyến đưa ra chương trình trợ giá vé. Điều này mang lại cho thị trường nội địa doanh thu khoảng 13,7 tỷ NDT (tương đương 1,88 tỷ USD) tính đến 27/2/2025, theo thống kê của nền tảng Maoyan.
Theo dõi cơn sốt về cậu bé Na Tra búi tóc củ tỏi, tôi thật sự ấn tượng với cách mà cậu bé còn đại náo cả thị trường tiêu dùng Trung Quốc và trở thành hiện tượng doanh thu tỷ đô ở nhiều ngành chỉ trong một tháng ra mắt. Chính phủ Trung Quốc có thêm một căn cứ để tin vào chiến lược tăng trưởng kinh tế mới, đặt trọng tâm vào tiêu dùng, thay vì chỉ chú trọng đầu tư như trước kia.
Nếu như sự trình làng của Na Tra 1 lần đầu vào 2019 cho thấy tiềm năng của ngành công nghiệp hoạt hình, thì Na Tra 2 của 2025 đã khẳng định vị thế cạnh tranh và sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành này tại Trung Quốc.
Sự mãn nhãn của 1.948 cảnh kỹ xảo cho thấy độ chín về tay nghề của đội ngũ sản xuất hơn 4.000 người. 138 studio đã bằng thế mạnh chuyên môn riêng của mình đóng góp vào màn trình diễn ấn tượng của toàn phim. Và sự sẵn sàng của các ngành liên quan đã hỗ trợ đắc lực cho cuộc ra mắt hoành tráng tại hơn 77.000 rạp tại Trung Quốc. Sự tồn tại cùng phát triển của các ngành hỗ trợ, các đơn vị cung ứng chuyên biệt đã liên kết tạo thành chuỗi giá trị có lợi, nâng cao năng lực và thúc đẩy năng suất để thực hiện các siêu dự án có quy mô và độ phức tạp như Na Tra 2.
Những con số trên cho thấy ngành hoạt hình của Trung Quốc đang có: một là nguồn lao động tay nghề cao, hai là các công ty không những đạt trình độ chuyên môn hoá sâu mà còn có sự trao đổi về công nghệ và bí quyết lẫn nhau, và ba là sự hiện hữu về chất lượng và số lượng các nhà cung ứng nội địa đủ năng lực. Nhưng, làm sao sự phát triển của một ngành hoạt hình có thể góp giai điệu vào bản hoà tấu chiến lược phát triển cùng các ngành khác, từ đó tạo ra một hệ sinh thái nhạy bén, kịp thời khuấy đảo thị trường tiêu dùng nội địa như cách Na Tra 2 đã làm trong một tháng qua?
Tôi cho rằng, người Trung Quốc không nhìn nhận đó là một ngành riêng lẻ, mà đã phát triển thành cụm ngành có năng lực cạnh tranh. Tức là các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng của ngành hoạt hình được tập trung trong cùng một môi trường kinh doanh với các ngành liên quan như sản xuất đồ chơi, du lịch, giải trí, thời trang, xuất bản, thị trường vốn... Bao trùm sự liên kết các ngành này là tính tương hỗ phát triển và sự cạnh tranh là để thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Điều đó còn mang đến bối cảnh cởi mở để các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ cũng có thể tham gia. Quy mô và hiệu quả liên kết của cụm ngành càng lớn thì lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp trong đó càng được gia tăng.
Điều này đã được chứng minh, cụ thể là:
Từ độ nhận diện cao của hình tượng Na Tra, ngành quảng cáo được hưởng lợi đầu tiên với doanh số tăng vọt cho các thương hiệu mà nhân vật này đại diện. Hoạt động thương mại hoá tài sản trí tuệ (IP) cũng mở ra một thị trường bán lẻ sôi động về đồ chơi, thẻ bài, mô hình chủ đề, vòng tay vàng. Chỉ tính riêng trên nền tảng Taobao, doanh số bán sản phẩm trò chơi theo chủ đề phim đã vượt qua 50 triệu NDT vào tuần thứ ba của tháng 2. Không đứng ngoài cuộc, ngành du lịch ở các địa phương có địa danh liên quan đến nhân vật hoặc tình tiết trong phim đã nhập cuộc bằng cách thiết lập giá trị thương hiệu Na Tra vào hoạt động kinh tế. Ghi nhận từ Tân Hoa Xã cho thấy sự gia tăng mạnh lượng khách trải nghiệm du lịch văn hoá so với cùng kỳ năm trước, lần lượt là 34% tại Tứ Xuyên, 30% tại Thiên Tân, 13,2% tại Hà Nam...
Sự bùng nổ doanh thu của phim hoạt hình Na Tra 2 và hiệu ứng lan toả sang các ngành dịch vụ khác cũng được dự báo mang lại một thị trường vốn đầy tiềm năng cho các công ty đang thu hút đầu tư trong hệ sinh thái này. Cổ phiếu của các công ty đầu tư, sản xuất, phát hành bộ phim... đều tăng mạnh.
Chính phủ Trung Quốc đã đặt ngành công nghiệp văn hoá vào một trong các trụ cột quan trọng để phát triển kinh tế và xã hội từ cách đây 25 năm. Chiến lược đó được liên tục cập nhật và rà soát cho đến nay. Vào 2019, Bộ Văn hoá của họ xác định 10 ngành trọng điểm, trong đó có cả hoạt hình, thiết kế sáng tạo, sản phẩm nghệ thuật, du lịch văn hoá, game online... Chính phủ Trung Quốc thực hiện vai trò dẫn dắt, tạo điều kiện phát triển các cụm ngành công nghiệp văn hoá sáng tạo với nhiều nhóm chính sách, như khơi thông thị trường vốn đầu tư; thành lập và đảm bảo quỹ phát triển nhân lực và vốn sản xuất; tăng cường giám sát thị trường và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; ưu đãi về lãi suất về thuế cho các doanh nghiệp trong cụm ngành; định hướng và kích cầu tiêu dùng của người dân; phát triển hạ tầng về công nghệ và kỹ thuật; thiết lập các KPI và tiêu chuẩn cạnh tranh cho các ngành trong hệ sinh thái đó... Điều thú vị là chính sách phát triển cho các cụm ngành này không bị bó buộc vào các doanh nghiệp trong một ngành hay trong một chuỗi cung ứng, mà có tính hỗ trợ bao trùm các ngành liên quan.
Khi nói về tinh thần kinh doanh của cộng đồng người Hoa khắp thế giới, người ta thường nể phục ở hai điểm: một là sự nhạy bén nắm bắt nhu cầu thị trường; hai là tính cộng đồng cùng làm ăn, có cạnh tranh để phát triển chứ không triệt tiêu lẫn nhau. Trong khi phim hoạt hình Na Tra 2 bước ra thị trường điện ảnh thế giới với sự kỳ vọng và tự hào của cộng đồng người Trung Quốc ở khắp nơi, tôi có chút chạnh lòng khi nghĩ đến các sản phẩm văn hoá của Việt Nam tại chính sân nhà.
Chúng ta cũng có rất nhiều nhân tài và công ty giỏi ở ngành công nghiệp văn hoá, nhưng phải chăng hoạt động kinh doanh của họ vẫn còn rất phân mảnh. Bài học về tính cộng đồng cùng nhau làm ăn và chính sách phát triển cụm ngành công nghệ văn hoá sáng tạo của Trung Quốc qua cơn sốt Na Tra có thể sẽ là kinh nghiệm quý cho Việt Nam.
Việt Nam cũng cần những chiến lược dài hạn, liên kết hiệu quả các nguồn lực về vốn, con người, công nghệ kỹ thuật để đặt các đơn vị này vào một môi trường tập trung, liên kết và cạnh tranh cùng phát triển.
Nguyễn Hoàng Khánh Tiên