Đoàn Minh Tâm
Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú luôn tiềm ẩn trong mình những dấu hiệu cho phép chúng vẫy vùng, phá toang tấm áo chật hẹp đang khoác đặng vươn lên một tầm cao mới: Tầm cao của thể loại tiểu thuyết. Dấu hiệu trước nhất là ở biên độ rộng của đề tài.Khi có ý định viết về tác giả nào đó, tôi thường tìm hiểu xem trước mình đã có ai viết chưa, viết về vấn đề gì và viết như thế nào? Tìm hiểu để học hỏi, tiếp thu những thành tựu người đi trước đạt được. Tìm hiểu để xem họ dừng lại ở chặng nào để bản thân còn bước tiếp trên con đường khoa học gian nan không có điểm cuối cùng. Đối với nhà văn trẻ Nguyễn Đình Tú cũng vậy. Trong một số lượng tương đối nhiều bài viết nằm rải rác trên một số báo và tạp chí về cây bút trẻ thuộc thế hệ thứ 4 nhà văn quân đội này, tôi đã bắt gặp ba lời bình thật đắt về truyện ngắn của anh: Lời bình của nhà văn Chu Lai, nhà phê bình văn học Bùi Việt Thắng và nhà phê bình văn học Nguyễn Thanh Tú.
Trước nhất xin được bàn về lời bình của nhà văn Chu Lai. Về truyện ngắn Nguyễn Đình Tú, nhà văn Chu Lai nhận xét như sau: Truyện ngắn của anh có hơi hướng tiểu thuyết ngọ nguậy bên trong [ 1]. Quả thật các truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú luôn tiềm ẩn trong mình những dấu hiệu cho phép chúng vẫy vùng, phá toang tấm áo chật hẹp đang khoác đặng vươn lên một tầm cao mới: Tầm cao của thể loại tiểu thuyết. Dấu hiệu trước nhất là ở biên độ rộng của đề tài. Các mảng đề tài thường gặp trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú là chiến tranh và người lính (các truyện Cánh rừng không yên ả, Đất quê cha, Câu chuyện ngày chủ nhật, Võ công binh nhì...), đạo và đời (Bên ấy là cuộc đời, Bên bờ hư ảo...), bản năng và lương tri (Nỗi đau biểu tượng, Ở xứ vô loài...). Cấu trúc truyện trong truyện với nhiều mảng đời, cảnh đời phối hợp, xen lẫn nhau là dấu hiệu thứ hai về xu thế tiểu thuyết trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú. Nhà văn trẻ này rất hay triển khai truyện ngắn theo mô hình xương cá. Nghĩa là từng câu chuyện nhỏ đảm đương vai trò các nhánh, được sắp xếp, bám dựa vào một tư tưởng chính đóng vai trò trục xương sống một cách khéo léo sao cho mỗi câu chuyện vừa có tính độc lập tương đối, vừa phụ thuộc lẫn nhau nhằm phục vụ cho việc diễn đạt tư tưởng đó một cách thuyết phục nhất.
Đay gieo mùa thương khó là câu chuyện của ba cô bạn gái ở một xóm đạo nghèo khó. Họ lớn lên, mỗi người có một hoàn cảnh, một thân phận riêng. Rồi một ngày họ gặp lại nhau, cùng nhau đi xưng tội thổ lộ tâm tư. Qua lời xưng tội của mỗi cô gái - cũng chính là cuộc đời của các cô - tư tưởng chính của câu chuyện dần hình thành: Hạnh phúc chỉ dành cho những con người có một tình yêu mãnh liệt và một lý trí sáng suốt. Thiếu một trong hai yếu tố này, hạnh phúc khó bền lâu. Cánh rừng không yên ả là một tập hợp gồm bốn câu chuyện ngắn kể về bốn con người mãi mãi là đồng đội của nhau. Chiến tranh đã qua đi, bốn người họ người nằm dưới lớp cỏ xanh, người đã xuất gia quy y, người thành doanh nhân thành đạt, người nguyện gắn bó cả cuộc đời với quân ngũ. Cuộc đời họ cứ nổi trôi theo những tháng năm dài. Để rồi khi đầu tóc đã bạc hoa râm họ lại gặp nhau ở chiến trường xưa – công trường ngày nay với bao buồn, vui, hạnh phúc, bất hạnh, nước mắt, nụ cười. Thông qua cuộc đời các nhân vật, toàn câu chuyện toát lên chân lý: vẫn dù ở hoàn cảnh nào, tình đồng đội vẫn chiếm một vị trí trang trọng trong trái tim những người lính.
Thực chất, các mảng đề tài trên đều đụng chạm tới những vấn đề căn bản của đời sống con người, đều chứa đựng trong mình tính chất và tầm vóc lịch sử lớn lao, tính suy tưởng sâu thăm thẳm nên mỗi truyện ngắn - không riêng gì truyện ngắn Nguyễn Đình Tú - viết về nó đều có khả năng phát triển thành tiểu thuyết. Còn cấu trúc truyện trong truyện do có lợi thế về chiều kích không gian, thời gian, sự kiện nên cũng rất dễ phát triển thành tiểu thuyết. Vậy nên, nếu chỉ dừng lại ở hai dấu hiệu trên thì chắc rằng sẽ có nhiều người e ngại cho tính thuyết phục của những kiến giải ở trên của chúng ta về một đặc trưng khu biệt quan trọng trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú. Do vậy, phương diện nhân vật sẽ là cơ sở chính để chúng ta thuyết phục mọi người đồng tình với nhận xét của nhà văn Chu Lai. Truyện ngắn là một lát cắt về cuộc sống, ở đó nhân vật thường chỉ hiện hữu tại một thời điểm nhất định trong cuộc đời dài dằng dặc của mình. Tuy nhiên, các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú lại hơi khác một chút. Họ hiện ra không chỉ ở một mà là ở nhiều những thời điểm quan trọng của cuộc đời. Cuộc đời nhân vật Ấm trong Đất quê cha chuyển biến qua rất nhiều giai đoạn quan trọng: từ một tay lính hầu quan phủ đến một người lính cách mạng, rồi thành một người sống lưu vong nơi hải ngoại. Người lính trong Ngày ấy một lần trải qua cuộc đời của một cậu học trò "nhìn đời bằng trái bóng tròn" đến cuộc đời người lính công tử và sau cùng là cuộc đời của một người đàn ông trưởng thành chững chạc. Chính đặc điểm này đã tạo cho người đọc một "tạo giác" rằng nhân vật truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú có độ sâu, độ trường từa tựa một nhân vật tiểu thuyết. Bên cạnh đó nếu nhìn từ góc độ loại hình học, chúng ta sẽ thấy trong hệ thống nhân vật của Nguyễn Đình Tú có kiểu [ 2] nhân vật thông tuệ. Những nhân vật như thầy Chu trong Vũ điệu của thị dân, sư ông trong Bên ấy là cuộc đời, bác Trường trong Ngày ấy một lần đều được nhà văn trẻ của chúng ta cấp cho sự thông tuệ, từng trải, lịch lãm vượt nhiều hơn mức cần có của một nhân vật truyện ngắn. Những nhân vật đó đều là những pho bách khoa thư về cuộc sống, một loại nhân vật "biết tuốt". Vậy nên cũng dễ hiểu khi thấy họ nhập vai người cứu rỗi, mở đường cho những nhân vật trẻ tuổi trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú. Đây cũng là một nhân tố then chốt tạo cho bạn đọc chúng ta cảm giác ở trên. Và cuối cùng ở một số nhân vật của Nguyễn Đình Tú mang trong mình những giá trị tư tưởng rất lớn. Chúng ta hãy nghe lời suy ngẫm của "hắn" trong truyện ngắn Nỗi đau biểu tượng: "Sống ở trên đời này đã làm người thì đừng làm thánh, nửa người nửa thú là bản chất vĩnh cửu của động vật cao cấp hai chân, còn nửa người nửa thánh là tấn bi kịch không thể tự chôn sống, tự hỏa thiêu, tự phân hủy"... Rõ ràng những tư tưởng lớn gặp ở những nhân vật tiểu thuyết hơn là nhân vật truyện ngắn.
Trên đây, chúng ta vừa điểm qua những luận cứ nhằm làm sáng tỏ lời nhận xét của nhà văn Chu Lai, đồng thời là một đặc điểm khá tiêu biểu của truyện ngắn Nguyễn Đình Tú. Việc truyện ngắn có hơi hướng tiểu thuyết cho thấy được nhà văn trẻ của chúng ta có một tư duy truyện ngắn khá dầy dặn về bố cục cũng như tầm suy tưởng - đây là điều rất đáng mừng với một nhà văn trẻ. Tuy nhiên, tiểu thuyết và truyện ngắn tuy cùng thuộc thể loại tự sự nhưng giữa chúng có những nét khu biệt riêng. Do vậy, việc truyện ngắn có hơi hướng tiểu thuyết cũng chưa hẳn là điều hay. Ở khía cạnh này, chúng ta bắt gặp lời bình thứ hai của nhà phê bình Nguyễn Thanh Tú: "Nhân vật chức năng khi được nhà văn khoác thêm cho tấm áo tư tưởng quá rộng (bằng chứng là nhiều khi nhân vật "phát ngôn" những điều to tát hay có những hành động vượt quá thân phận, địa vị, vượt quá giới hạn "chức năng" làm cho nhân vật như bơi trong tấm áo tư tưởng ấy..." (VNQĐ số 631) Chắc rằng khi hạ bút viết những dòng trên trong tâm trí nhà phê bình Nguyễn Thanh Tú hãy còn lởn vởn cuộc đời cậu bé Tuấn trong Bên bờ hư ảo và dòng suy tưởng của nhân vật "hắn" ở Nỗi đau biểu tượng chúng ta vừa trích dẫn ở trên. Tuấn là một cậu bé có những hành động khá kỳ lạ. Được sinh ra trong một gia đình êm ấm, hạnh phúc, song cậu chỉ thích ở chùa, đi tu. Sau một quãng thời gian ngắn chấp chới giữa coi đời và cõi đạo, cậu đã quyết định hiến trọn phần hồn và phần xác cho cửa Phật. Đành là việc Tuấn đi tu được Nguyễn Đình Tú lý giải rất khéo bằng chữ duyên của nhà Phật. Nhưng khi anh cho một cậu bé chừng mười sáu, mười bảy tuổi đã có những suy nghĩ chín chắn như người trưởng thành và nhất là lại lập luận, diễn giải về những phạm trù khổ, đời, đạo thì không phù hợp cho lắm. Tuấn là nhân vật bị tác giả "ép lớn" nên hơi khiên cưỡng. Còn tư tưởng của nhân vật "hắn" trong Nỗi đau biểu tượng. Đây là tư tưởng cực hay (nhưng không mới. Xin xem phần chú thích dưới đây). Duy có điều đặt tư tưởng ấy vào một truyện ngắn thì không ổn. Phải khẳng định ngay rằng không một nhân vật truyện ngắn nào - kể cả nhân vật của Tolstoy vĩ đại [ 3] - (Người viết nhấn mạnh) có đủ "nội lực" để truyền tải nổi tư tưởng này. Để chứng minh cho chân lý con người không thể đứng ngoài quy luật vận động của lịch sử, A.Tolstoy đã phải viết bộ ba tiểu thuyết Con đường đau khổ nổi tiếng dày đến cả... 1.000 trang. Vấn đề Nguyễn Đình Tú đặt ra trong Nỗi đau biểu tượng cũng như vấn đề A.Tolstoy đặt ra trong Con đường đau khổ đều là những vấn đề lớn lao của toàn nhân loại. Vậy nên, suy tưởng đó cần được chiêm nghiệm, lý giải, chứng minh thông qua hành trình đầy gian khó của nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết "tầm cỡ" thì mới đúng "tầm" giá trị. Và quan trọng hơn, chỉ có làm như thế nhà văn mới có hy vọng chinh phục được bạn đọc thấu hiểu chân lý trên bằng loại hình văn học nghệ thuật.
Nếu như hai lời bình của nhà văn Chu Lai và nhà phê bình Nguyễn Thanh Tú tập trung vào mảng nhân vật thì lời bình của nhà phê bình Bùi Việt Thắng lại hướng đến vấn đề bút pháp. Anh nhận xét: "Truyện ngắn của Nguyễn Đình Tú có cái gì thẳng băng gọn ghẽ quá." (VNQĐ số 620+621). Theo chúng tôi sở dĩ bút pháp Nguyễn Đình có tính chất trên một phần là do những ảnh hưởng từ chất Luật và Lính vốn có trong anh. (Anh vốn là sinh viên Đại học Luật, từng công tác tại Viện kiểm sát quân sự một thời gian). Tính chất công việc của nghề luật và kỷ luật, tác phong của người kiểm sát quân đội luôn đòi hỏi con người ta phải rõ ràng, minh bạch, dứt khoát trong nhiều trường hợp. Sống trong hai môi trường này một thời gian khá dài (gần chục năm), nên việc việc văn phong của anh chịu tác động từ những yếu tố trên cũng là điều tất yếu. Những tác động này được biểu hiện ở năm điểm sau.
Một là những câu văn tả thiên nhiên, tả cảnh không gợi, không sinh động, uyển chuyển. Những câu văn miêu tả của Nguyễn Đình Tú chỉ ở mức "trung bình" theo kiểu "Lạ thật, cả mặt biển rộng lớn chỉ một màu xanh đen, nhưng riêng bãi nước gần hòn đảo kia sao lại có màu xanh kỳ bí thế nhỉ? Màu xanh dương, màu xanh ngọc, màu lá mạ, màu nõn chuối, màu cỏ biếc... Không, không thể gọi chính xác được màu sắc của bãi nước kia" (Ở nơi bão tố). Hai là ngay trong những đề tài thuộc lĩnh vực tâm linh như câu chuyện về những bào thai không có may mắn được thành người (Ở xứ vô loài) thì bút pháp của Nguyễn Đình Tú lại chưa đạt đến độ "huyền ảo" cần thiết - vốn rất cần trong những đề tài kiểu này. Thoạt nhìn qua nhan đề câu chuyện, chúng tôi những tưởng sẽ sa vào một mê cung huyền bí, vừa đọc vừa phải căng hết tâm trí ra nắm bắt, theo dõi sự phát triển của nhân vật, tình huống truyện vì chỉ một thoáng thiếu tập trung là bị... lạc, phải đọc lại từ đầu. Tuy nhiên chúng tôi không khỏi có chút thất vọng khi thấy câu chuyện vẫn diễn ra rất mạch lạc. Trong bóng đêm tối tăm của xứ vô loài, vẫn có ánh sáng tỏa ra từ văn phong tác giả giúp người đọc thấy rõ mọi vật trong chốn tâm linh hư ảo đó. Ba là, thủ pháp độc thoại nội tâm không được Nguyễn Đình Tú đẩy lên đến tận cùng dù anh rất hay sử dụng. Dòng hồi tưởng, độc thoại của nhân vật Quyên (Mơ về một khúc sông trôi) đơn thuần chỉ là những hồi ức về quá khứ. Tâm trạng của một người yêu mà không có được người mình yêu; của người vợ có một người chồng điên khùng, bệnh hoạn; của một người mẹ có một đứa con tật nguyền; của một phạm nhân phải ra trước vành móng ngựa tuy được tác giả miêu tả đầy đủ kỹ càng nhưng chính giọng văn đều đều bình lặng như một "khúc sông trôi" của tác giả làm cho những dằn vặt, xung đột, tự vấn, quằn quại, da diết, dai dẳng, hỗn loạn, bàng hoàng, đau đớn, hạnh phúc, căm thù, ức chế... trong Quyên thiếu đi những trường đoạn "bùng nổ, nổi loạn" cần thiết của một nhân vật "đau khổ" đích thực. Bốn là Nguyễn Đình Tú rất hạn chế xây dựng những nhân vật dị hình gây ám ảnh. Trong tất cả các truyện ngắn anh viết chỉ có nhân vật cô giao liên Liên (Chuyện xưa chưa kể) là có ngoại hình không bình thường do mắc bệnh hủi. Tuy nhiên do anh không tập trung vào khía cạnh này nên dấu ấn đọng lại vẫn là thân phận nhân vật. Điều này là tốt nhưng nếu độc giả vừa lưu giữ cả thân phận và ngoại hình nhân vật - như Chí Phèo của Nam Cao - thì nhân vật sẽ có sức sống bền vững hơn. Năm là tính sắp đặt trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú tương đối rõ. Hình tượng ngôi chùa, đền trong các truyện Bên ấy là cuộc đời, Cánh rừng không yên ả, Ngày ấy một lần mang đậm dấu vết sắp đặt của tác giả. Không ngẫu nhiên khi có một ngôi chùa ở cạnh một trại tù, một bãi dò mìn và một ngôi đền nằm giữa rừng để các nhân vật "tình cờ" lạc vào. Rồi từ đó thân phận họ thay đổi. Kiểu kết cấu này có cái gì đó hơi giống với các tích truyện cổ. Đành rằng tác phẩm văn học - nghệ thuật nào cũng là sự sắp đặt của tác giả, nhưng vấn đề ở chỗ cách sắp đặt phải sao cho thật khéo, thật tự nhiên, sắp đặt mà như không hề có dấu tích bàn tay con người đụng tới.
Trên đây là ba lời bình về truyện ngắn Nguyễn Đình Tú. Đó đều là những lời bình chuẩn xác, thể hiện con mắt tinh tường của người đọc, người phê bình. Tuy nhiên không biết vì lý do gì mà cả nhà văn Chu Lai, nhà phê bình Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thanh Tú đều không đưa ra những dẫn chứng chứng minh cho lời bình của mình. Việc này xem ra chưa "đúng" lắm so với yêu cầu của công việc nghiên cứu văn học. Vậy nên suốt từ đầu đến giờ, chúng tôi đành "mạo muội" làm nốt phần còn lại. Rất mong được lượng thứ! Và bây giờ chúng tôi xin được trình bày quan điểm của mình về một phương diện quan trọng trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú: Đó là các tác phẩm viết về người lính của anh. Văn học về người lính và chiến tranh cách mạng là mảng đề tài "vĩnh cửu" của văn học nước nhà. Nguyễn Đình Tú là nhà văn trẻ, hơn nữa anh lại là nhà văn quân đội. Việc khảo sát các truyện ngắn Nguyễn Đình Tú viết về đề tài này, xét về mặt đồng đại sẽ giúp chúng ta có thêm một cái nhìn về bút lực của anh; xét về mặt lịch đại sẽ giúp chúng ta thấy được phần nào những biến đổi, vận động của dòng văn học viết về người lính và chiến tranh cách mạng. Đây là hai lý do chủ yếu khiến chúng tôi đi đến quyết định ở trên dù rằng mảng đề tài này chiếm một tỷ lệ không thật lớn trong các sáng tác của anh.
Nhân vật người lính trong truyện ngắn Nguyễn Đình Tú tựu trung lại chia làm hai kiểu nhân vật. Người lính trong thời chiến và người lính - đa phần là lính trẻ - trong thời bình. Đây cũng là hai kiểu người lính thường gặp trong sáng tác về đề tài người lính và chiến tranh cách mạng của các cây bút trẻ trong và ngoài quân đội. Hình ảnh người lính thời chiến xuất hiện tương đối rõ nét trong hai truyện Đất quê cha, Cánh rừng không yên ả, thưa thớt trong vai trò nhân vật phụ ở các truyện ngắn khác. Nhìn chung, về cơ bản nhân vật người lính thời chiến dưới ngòi bút Nguyễn Đình Tú không khác mấy so với nhân vật người lính của các nhà văn quân đội đi trước. Nghĩa là mỗi người lính là một tấm gương sáng ngời về những phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ: anh dũng, mưu trí, kiên trung... Thú thật là chúng tôi rất "nản" về điều này. Dường như Nguyễn Đình Tú chưa thoát ra khỏi con đường mà các bậc tiền bối đã đi.
Tuy nhiên vẫn có một điểm sáng nhỏ gieo vào lòng chúng tôi một chút ít "hy vọng mong manh" vào những sáng tác tiếp theo [ 4] của Nguyễn Đình Tú về đề tài này. Đó là nhân vật Ấm trong truyện ngắn Đất quê cha. Ấm cùng với Nguyễn Một là hai cặp nhân vật chính của truyện. Nếu như Nguyễn Một được Nguyễn Đình Tú xây dựng theo môtíp cách mạng "từ đầu đến chân" thì Ấm lại khác hẳn. Cuộc đời nhân vật này có nhiều khúc quanh, ngã rẽ quanh co. Từ một người phục dịch lý trưởng, Ấm đi theo cách mạng, song anh không theo đến tận cùng. Khi miền Bắc giải phóng, Ấm lại dắt vợ con xuống tàu vào Nam vì sợ cách mạng sẽ truy cứu những tội lỗi mình gây ra trong thời gian phục vụ chính quyền thuộc địa. Ở miền Nam một thời gian, Ấm lại di cư sang Pháp. ở Pháp, Ấm cũng không thấy tìm được cho mình sự bình yên. Cuối cùng trước khi mất, Ấm chợt ngộ ra rằng chỉ có "đất quê cha" mới là nơi mình có sự bình yên vĩnh viễn. Đọc qua đôi dòng tóm lược "bản lý lịch" của Ấm, chúng tôi nhận thấy nhân vật này phảng phất tựa loại hình nhân vật tìm đường kinh điển của văn học Nga, nhất là cuộc đời Grigori Melekhov. Nghĩa là hành trình tới chân lý của nhân vật không hề bằng phẳng. Nhân vật phải trải qua nhiều khúc quanh cuộc đời, mà mỗi khúc quanh là một lần trải nghiệm về hạnh phúc, đau khổ, hy sinh, lẽ sống: Khi giữ mình, lúc buông thả, vừa nhân ái lại thoáng bạo tàn... Tâm trạng nhân vật luôn ở trong trạng thái giành giật, tranh đấu giữa các hệ giá trị tư tưởng khác nhau: Phản bác xen lẫn đồng tình; dằn vặt, đay nghiến, tự vấn hòa cùng niềm vui, thanh thản, bình yên... Những điều chúng tôi vừa trình bày là mô hình nhân vật lý tưởng. Xây dựng thành công kiểu nhân vật này là thử thách nghề nghiệp thực sự khó khăn với người cầm bút. Song với cái nền do nhân vật ấm tạo ra, chúng ta hy vọng trong tương lai Nguyễn Đình Tú sẽ có những bước bứt phá mạnh mẽ về mảng đề tài người lính và chiến tranh cách mạng. Và biết đâu anh lại là người thực hiện được "giấc mộng Tulông" của văn học nước nhà.
Ở mảng người lính trẻ thời bình, Nguyễn Đình Tú viết khá nhiều. Các truyện Đêm thành Nam gió lùa, Võ công binh nhì, Chuyện lính, Đay gieo mùa thương khó, Nỗi ám ảnh khôn nguôi... đã tái hiện một phần chân dung người lính trẻ thời bình: Vừa lý tưởng vừa thực tế; vui tính, xốc nổi, tinh quái mà can đảm, chín chắn, hào hiệp. Song nhân vật người lính trẻ của Nguyễn Đình Tú chưa gây cho chúng tôi nhiều ấn tượng. Cảm giác chung là anh mới chỉ tả được đôi nét tính cách bề nổi chứ chưa chạm tới bản ngã sâu thẳm. Đây cũng là mảng đề tài anh cần nỗ lực đầu tư hơn nữa.
Xin được coi đây là lời bình thứ tư của chúng tôi về truyện ngắn Nguyễn Đình Tú!
(Nguồn: Văn nghệ Quân đội)