Một loài bọ que. |
Michael Whiting, một nhà sinh học tiến hóa tại Đại học Brigham Young ở Provo, Utah (Mỹ), và cộng sự đã tình cờ khám phá ra điều này khi kiểm tra ADN của 37 loài bọ lá và bọ que (những động vật nổi tiếng về khả năng ngụy trang) để thiết lập cây gia đình của chúng.
Theo quan điểm thông thường của các nhà côn trùng học, quá trình tiến hóa mọc cánh của côn trùng chỉ diễn ra một lần trong suốt tiến trình lịch sử, và rằng những con có cánh ngày nay là hậu duệ của tổ tiên có cánh từ xa xưa. Họ cũng nhận định rằng 60% số loài bọ que đã tiến hóa để loại bỏ cơ quan bay này, nhằm tập trung năng lượng cho việc sinh sản. Cũng theo lập luận đó, đôi cánh một khi đã mất đi, thì sẽ không trở lại, vì gene cần thiết để tạo ra chúng đã đột biến tới mức không thể sửa chữa được nữa.
Tuy nhiên, Whiting phát hiện thấy ở loài ruồi giấm Drosophila, gene quy định tạo cánh cũng đồng thời là gene chi phối việc tạo chân. Như vậy, nếu đặc điểm trên cũng đúng với bọ que, thì áp lực tiến hóa sẽ ngăn chặn sự đột biến của gene tạo cánh (bởi nếu thế, chân của chúng cũng tiêu biến mất!). Bọ que chỉ “tắt”, hoặc “bật” các gene này trong những thời điểm nào đó mà thôi.
Phân tích của Whiting đã đưa tới kết quả là, những con bọ que nguyên thủy nhất, xuất hiện từ 300 triệu năm trước, đã thực sự tiêu biến cánh của chúng, và sau đó tái tiến hóa cấu trúc này ít nhất 4 lần nữa. Ông cũng phỏng đoán rằng, thậm chí mắt động vật cũng có thể mất đi và "mọc lại" qua thời gian.
Vì nghiên cứu mới chỉ xem xét 14 trong tổng số 19 phân họ bọ que và bọ lá, nên rất có thể, hiện tượng tái mọc cánh cũng rất phổ biến trên nhiều loài khác.
B.H. (theo NewSci)