Ngân hàng thế giới (WB) vừa công bố kết quả đánh giá tác động mô hình trường học mới VNEN, trong đó cho rằng học sinh theo phương pháp giáo dục này "có sức học bằng hoặc hơn các em ở lớp truyền thống", "phát triển kỹ năng nhận thức và phi nhận thức".
Trong khi đó, nhiều tỉnh thành lại phản ứng với VNEN, cho dừng triển khai với lý do lớp học quá đông, học sinh không tiếp thu được kiến thức, trình độ thua kém so với các bạn học theo cách truyền thống.
Ông Nguyễn Đức Hữu, Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho rằng báo cáo của WB đánh giá tác động của phương pháp giáo dục VNEN đối với các chủ thể tham gia, bao gồm: hiệu trưởng, giáo viên, học sinh, phụ huynh và đó là nguồn thông tin quan trọng. Với phương pháp nghiên cứu khoa học, những số liệu thu thập thể hiện trong báo cáo là khách quan.
"Tuy nhiên, việc phân tích, rút ra nhận định vẫn ít nhiều mang tính chủ quan của người đánh giá. Mặt khác, nếu những hạn chế trong quá trình triển khai phương pháp giáo dục VNEN được phân tích một cách sâu sắc, cụ thể hơn để đưa ra cách giải quyết thì báo cáo sẽ hoàn thiện hơn", ông Hữu nói.
Theo Vụ phó Hữu, khi áp dụng VNEN, đa số trường học chuẩn bị đủ điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đội ngũ giáo viên, đồng thời thực hiện một cách linh hoạt, đạt hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, một số nơi nhận thức chưa đầy đủ, chưa làm tốt công tác truyền thông, triển khai một cách rập khuôn, máy móc nên kém hiệu quả. Do đó, một bộ phận học sinh không đạt được kết quả học tập như mong muốn, gây lo lắng cho phụ huynh và dư luận xã hội.
Khó khăn lớn nhất là việc tập huấn, bồi dưỡng giáo viên về phương pháp dạy học tích cực theo VNEN còn hạn chế. Ở những địa phương triển khai mở rộng, cán bộ quản lý, giáo viên chưa thực sự sẵn sàng.
Để giải quyết vấn đề này, Bộ Giáo dục tiếp tục triển khai các khóa tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên về phương pháp, kỹ thuật dạy học, trong đó chú trọng tập huấn qua mạng, nâng cao vai trò "tự học" và "thực hành" theo tinh thần "tập huấn tại công việc" mà Bộ đã chỉ đạo trong những năm qua.
Ông Hữu phủ nhận thông tin Bộ Giáo dục "buông tay" với VNEN. Ngược lại, để chuẩn bị cho năm học mới 2017-2018, Bộ đã chỉ đạo các địa phương, cơ sở giáo dục rà soát điều kiện triển khai, nhằm quyết định ngừng đối với những trường chưa đủ điều kiện tối thiểu về cơ sở vật chất, chỉ lựa chọn một số thành tố tích cực của phương pháp giáo dục này để áp dụng.
"Tôi muốn khẳng định, Bộ sẽ chung tay cùng các cơ sở giáo dục khắc phục khó khăn, triển khai có hiệu quả hơn phương pháp giáo dục theo VNEN, đồng thời chuẩn bị tốt cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới", ông Hữu thông tin.
Trường học mới tại Việt Nam (gọi tắt là VNEN) xuất phát từ mô hình trường học mới (EN) được thực hiện tại Colombia. EN được chuyên gia giáo dục quốc tế từ các nước có nền giáo dục tiên tiến hỗ trợ, đạt được những thành công vang dội và mau chóng được nhân rộng khắp châu Mỹ La-tinh. Theo chương trình EN, học sinh đóng vai trò trung tâm trong khi giáo viên chỉ là người hướng dẫn; nội dung học liên quan mật thiết đến đời sống hàng ngày; học sinh được phân thành nhóm có nhịp độ phát triển tương đồng mà không đánh đồng theo lứa tuổi; học sinh và giáo viên cùng tham gia tạo nên những sản phẩm phục vụ cộng đồng. Mô hình áp dụng tại Việt Nam có cải biên so với nguyên gốc, thực hiện từ năm học 2011-2012 với 6 tỉnh tham gia. Đến năm 2017-2018, có 58 tỉnh, thành phố đăng ký triển khai VNEN ở tiểu học với tỷ lệ 18% học sinh tham gia; cấp THCS tỷ lệ học sinh tham gia là 13%. |