Hoàng Vũ Thuật -
(Đọc Khúc biến tấu xương rồng - Trần Quang Đạo)
Một cuộn chỉ cỏn con trong mỗi gia đình làng quê đâu cũng có, nó xâu kết đời sống con người: một nửa lăn theo ta qua quãng đời khốn khó/ một nửa nằm yên phận bấy lâu (Cuộn chỉ ngày xưa). Sau vụ gặt làng xóm mở lễ mừng được mùa, những chiếc liềm, hái vất vả được thu dọn, treo lên vách nhà, yên hàn rồi đó nhưng đâu đã yên hàn:Những chiếc chấu sắc rụng theo từng thân gió rỗng
như người lính vô danh ở lại cánh đồng
trong giấc ngủ sau vụ mùa
liềm hái uốn câu...
Có cái gì đau nhói trong những câu thơ trên. Lá lúa uốn câu, liềm hái cũng uốn câu. Những chiếc chấu sắc đã ra đi, giống như những người lính vô danh ngã xuống. Cách so sánh có vẻ cập kênh mà day dứt. Người dân một nắng hai sương làm ra hạt thóc phải chống chọi bao nhiêu gian lao khốn khó. Cuộc chiến âm thầm quanh năm vật lộn được thua trên cánh đồng, chẳng khác gì nơi trận mạc: Cha ra đi/ Cây trong vườn để tang rủ mặt lá buồn/ mạ như chân nhang cắm xuống bùn đưa tiễn (Ước nguyện cánh đồng)
Có cái gì thảng thốt trong những câu thơ sau đây: Vẫn ban mai/ con gà trống gọi mặt trời rồi mổ những hạt thóc dụ gà mái tới/ những hạt vàng cho mùa sinh nở/ mà sao những chiếc mỏ kia nuốt cả sạn theo cùng (Cánh đồng).
Nhà thơ không săn tìm cái hiện hữu, phô bày, ngược lại đào sâu vào âm bản các sự vật hiện tượng cần khai thác. Tư duy lật ngược, tương phản là thủ pháp thường thấy trong thơ Trần Quang Đạo:
cát trắng nhuộm màu bóng tối
cây như bóng người thiền dưới trời khuya
(Khúc biến tấu xương rồng)
... Mỗi ngày tôi chết đi một ít
(Đi viếng)
Eptusenko từng nói "một con người mất đi là cả một thế giới mất đi". Trần Quang Đạo giật mình khi gặp xe tang ngang qua, và cảm nhận từ con người mình chết đi một ít, đó là sự cảm nhận hẫng hụt, rất nhân bản. Sự tương phản trong tư duy không nảy sinh mâu thuẫn, đấy là sự tương phản giúp cho hình tượng thơ mở rộng, người đọc tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật bằng nhiều hướng khác nhau.
Nếu như ở phần đầu Cánh đồng mang tính nhập cuộc, khai mở thì phần Chiều Nguyên Phi, hệ thống cấu trúc tư duy thơ đã ổn định. Loạt bài trong khúc biến tấu này dẫn người đọc đến thế giới nội tâm bí ẩn riêng biệt, tiêu biểu như Chiều Nguyên Phi, Sao Hỏa, Hỏi...
Sau lập thể thời gian
nối hy vọng bằng những nhát cắt bất chợt
bỗng bàng hoàng hạnh phúc
chiều Nguyên Phi hiện ra như thuở ban sơ chiều
Nguyên Phi là ai, chiều Nguyên Phi như thế nào, khó mà biết được. Nhà thơ không chú giải, nhưng rõ ràng trong cuộc kiếm tìm chân trời nghệ thuật, ta hình dung một bức tranh mơ hồ, như không có thực tại, lại hội tụ đầy đủ không gian, thời gian với những gam màu của một buổi chiều linh diệu đã xâm chiếm, hút hồn ta. Cũng như ước vọng lập lại một tình yêu khác trên Sao Hỏa, không giống tình yêu cũ mèm xưa như trái đất/ với những cảm xúc khuôn sáo bó chặt dải yếm.
Khát vọng giải phóng qua hai bài thơ Chiều Nguyên Phi và Sao Hỏa rất mạnh. Cái trật tự bấy lâu về đời sống tinh thần con người nom ra quá cũ kỹ, không phù hợp nữa. Sự thay đổi đời sống nội tâm con người giống như sự thay đổi thi pháp sáng tạo:
Những bài thơ
mang cảm xúc sao Hỏa
những trói buộc ngôn từ vào niêm luật phá bỏ
chỉ con nhịp tâm hồn trong loạt đạn chữ
như những chùm pháo hoa trong bầu trời xúc cảm
nén lời yêu em nổ tung!
Cảm xúc ẩn ức chỉ chờ có thế, chờ một ngày anh sẽ đặt dưới gối của em/ một bầu trời sao Hỏa. Trần Quang Đạo lãng mạn hóa khát vọng tự do - cái quyền của con người trong thế giới của nó.
Kiên định với sự vận động đổi mới, không chịu gò bó khuôn sáo theo kiểu tư duy một chiều, nhà thơ tiếp tục bộc lộ chính kiến bằng một loạt câu hỏi, hỏi mây trắng, hỏi sông, hỏi người đang yêu và cuối cùng hỏi trời cái điều phi lý, bức bách không được giải tỏa. Tại sao những đỉnh núi có mây về mà vẫn cô đơn. Tại sao sông gặp biển lại vỡ tung ra từng con sóng. Tại sao hỡi những người đang yêu, trong vòng tay trăng khuyết kia nghiêng cả biển - thủy triều cũng bất lực triệu triệu năm. Nghịch lý của nỗi cô đơn luôn hành hạ con người, hành hạ các thi nhân đa cảm. Họ an ủi mình bằng cách lấy các hiện tượng tự nhiên trả lời cho nỗi cô đơn muôn thuở của con người:
Trời khác chi ta giông bão thất thường!
Tìm tới "miền cô đơn con người" chính là tìm tới nguồn gốc sâu xa về một quy luật sống. Con người luôn cô đơn trong thế giới tự nhiên, cô đơn trước vũ trụ bao la, cô đơn trong chính mình. Nhìn thẳng vào cô đơn để xác nhận giá trị cao quý nhất của con người. Chỉ có con người mới nhận thức được giá trị của tự nhiên vô bờ bến, chỉ có con người mới định đoạt được số phận của mình.
Khúc biến tấu xương rồng được thăng hoa vào phần cuối bằng cái tit rất hiện đại Yn , với lời đề từ: như một tia chớp hóa thạch. Yn cũng là tên một bài thơ. Y mũ n là gì?, một cấp số toán học, một ý tưởng lạ, lại được giải thích qua cảm quan đồng nội: mật mã là tiếng gà nơi chái bếp đầy bồ hóng của mẹ/ là những nong mốt lòng đôi cha lận đận sàng/ là dấu chân trâu đựng trong ký ức. Trần Quang Đạo biết dần sàng cho thơ mình, sàng sẩy những hạt thơ lép, giữ lại cái cốt tủy nhất. Bạn đọc sẽ thấy sự liên tưởng nhảy cóc trong thơ Trần Quang Đạo qua nhiều bài. Biện pháp nhảy cóc thường gây cho người ta nhiều thú vị bất ngờ, cùng nhà thơ thăng hoa vào cõi hư ảo: Anh thấy những nhà phê bình đội những thúng cát chảy, như mồ hôi nhỏ xuống đường cày... Anh nhìn thấy những nhà bác học/ chưng Yn trên cồn chín mươi độ mờ nhân ảnh... Trong khi những cánh chim đông cứng trời xa.
Sáu bài thơ trong phần Yngần như không neo vào bề mặt của hiện thực, điểm tựa thường thấy của nhiều người viết khi triển khai tứ thơ. Ngay các bài Mưa biển, Cha, cũng biến tấu thành những khúc thức có chút gì hoang tưởng: anh như diễn viên xiếc đi trên dây đàn biển (Mưa biển) - bây giờ mùa mưa đều trở trời trái gió/ thêm gió từ nơi cha nằm mẹ xoay trở ra sao? (Cha). Những bài khác cảm xúc thăng hoa đạt tới đỉnh điểm. X, Tiếng đêm, Thăng bằng, Lập ngôn thuộc hệ đó.
Trần Quang Đạo cho chúng ta cái nhìn mới về ngôn ngữ, anh chiêm nghiệm: làm xiếc ngôn từ vượt ra ngoài ngôn từ như sắc đẹp thôi miên cảm xúc (Thăng bằng). Trong Tiếng đêm, ngôn từ không chỉ là hình thức biểu hiện, mà đậm đặc ý tưởng:
Những con mèo cái mang tiếng kêu
đi hoang cuộn đêm như sóng mùa động biển
rồi xa
tôi nằm im
nghe vòi nước nhà ai như tiếng thở dài
Hình tượng thơ được nhà thơ đan xen từng mảng tối sáng trong bức tranh siêu thực, tạo ra những vùng ảo giác phi lý, giúp nhận thức người đọc có khả năng tưởng tượng bay bổng, ngoài ước muốn chủ quan.
Sự đóng góp về cấu trúc tư duy và sử dụng ngôn ngữ linh hoạt của Trần Quang Đạo rất có ý nghĩa về phương diện đổi mới thơ hiện nay. Tư duy thơ hiện đại cần phát triển cân đối hai mặt trí tuệ lẫn cảm xúc.
(Nguồn: Văn nghệ)