![]() |
Con tàu giờ đã thành đống sắt gỉ trên biển Aral. |
Biển Aral nằm trong đất liền giữa vùng Trung Á, cạnh những nước thuộc Liên bang Xô Viết cũ như Uzbekistan, Kazhakhstan… Trên thực tế, Aral, cũng như biển Caspian, là những hồ nước mặn rộng lớn. Tuy nhiên, vì những lý do lịch sử và do sự lạm dụng ngôn ngữ mà người ta gọi nó là biển.
![]() |
Aral trước và sau khi bị thu hẹp lại. |
Bộ Bách khoa toàn thư phát hành năm 1960 viết: “Nằm trong vùng Trung Á, biển Aral là hồ chứa nước lớn thứ tư trên thế giới sau biển Caspian, hồ Superieur và hồ Victoria. Nó trải dài trên 67.000 km2, bằng diện tích nước Ireland. 100 nghìn người Uzbekistan và Kazakhstan sống cạnh bờ biển, chủ yếu ở Muynak và Aral’sk, hai hải cảng chính trong vùng …”. Cùng thời điểm đó, ngành đánh cá từ biển Aral đã cung ứng hằng năm gần 50.000 tấn cá chép, cá tầm… cùng khoảng 10% trứng cá tầm cho Liên Xô. Nhiều ngành công nghiệp cũng phát triển mạnh như chế biến cá hộp, xưởng đóng tàu, nhà máy giấy…
Đổ vào biển Aral là hai con sông Amou-Daria và Syr-Daria. Hai con sông này đã tạo nên một vùng châu thổ rộng lớn, với những cánh rừng tougai bát ngát. Rừng tougai đã nuôi sống ngành sản xuất giấy trong vùng (tougai là một hệ sinh thái bao gồm những thân cỏ cao, giống cây sậy khổng lồ, là nơi dung thân của nhiều loài côn trùng, bò sát, chim chóc và cả loài có vú, trong đó có hổ).
![]() |
Vị trí của hồ (biển) Aral trong vùng Trung Á. |
Tuy nhiên, 40 năm sau, trong bộ Bách khoa toàn thư điện tử phát hành cuối tháng 12/2001, người ta tìm thấy một biển Aral hoàn toàn khác. Nó chỉ còn chiếm diện tích 20.000 km2, không bằng 1/3 so với trước. Độ mặn của biển tăng từ 10gr muối/lít nước lên 50 gr/lít, vượt quá nồng độ trung bình của các đại dương (36 gr/lít). 20 trong số 24 loài cá ở đây đã biến mất vì không thể sinh sản trong môi trường quá mặn. Các bến tàu nằm trơ trên đất liền vì biển đã chạy xa hàng trăm km. Nghề đánh cá bị dẹp bỏ, các nhà máy làm đồ hộp, xưởng đóng tàu, nhà máy giấy thi nhau đóng cửa. Vùng châu thổ màu mỡ xưa kia nay giống như hoang mạc. Rừng tougai biến mất, gỗ cũng không còn. Trong số khoảng 180 loài động vật từng sống ở vùng này, chỉ còn chưa đến 40 loài tồn tại.
Điều gì đã biến Aral thành vùng đất chết như vậy?
Bi kịch bắt đầu từ năm 1950, khi các nước trong khu vực cần đến bông vải để may quân trang cho quân đội. Tuy nhiên trên thị trường lúc đó, bông được xem là "vàng trắng", có giá bán rất cao. Mỗi kg bông vải trị giá gấp 30 lần 1 kg ngũ cốc. Trong điều kiện kinh tế còn khiêm tốn, các nước trong vùng đã cho rằng tốt hơn hết là tự cấp tự túc. Họ cần trồng bông.
Để làm được việc đó, nhất thiết phải có ánh sáng và nước. Ánh sáng trên vùng Trung Á không thiếu, nhưng nước thì khan hiếm trầm trọng. Sau một thời gian nghiên cứu, các nước đã quyết định tận dụng nước từ hai con sông Amou-Daria và Syr-Daria (vốn do băng tuyết tan ở vùng núi Himalaia tạo thành). Kể từ thập niên 1950, người ta đã cho xây các đập chắn, kênh đào và một hệ thống tưới tiêu rộng lớn. Một trong những công trình quan trọng là kênh đào Karakoum. Con kênh này dẫn nước đi 1.600 km để biến những ốc đảo trên đất Turkmenistan thành những vườn rau ngút ngàn, những cánh đồng bông bát ngát.
Tuy nhiên, các nhà hoạch định đã bỏ qua việc bê tông hoá những kênh đào. Hậu quả là, dưới ánh mặt trời nhiệt đới chói chang và cái nóng nhiều khi lên đến 40 độ của vùng Trung Á, 50% nước của hai dòng sông đã ngấm vào cát bỏng hay bốc hơi vào bầu không khí oi bức quanh năm. Một yếu tố nữa là trong kỹ thuật tưới tiêu, người ta đã không thiết lập những đường ống dẫn nước ngầm như nhiều vùng khô hạn khác. Kết quả là, trước khi về đến đồng ruộng, nước đã bị tổn thất từ 20 đến 50%. Cuối cùng, nơi chịu thiệt hại nặng nhất chính là vùng biển Aral. Nước ở biển bốc hơi liên tục nhưng không được hai con sông bù đắp thoả đáng. Amou-Daria và Syr-Daria vừa phải cung cấp một lượng nước quá lớn cho các vùng canh tác, vừa bị lãng phí trên đường di chuyển.
Trước năm 1960, hai con sông này cung cấp cho biển Aral mỗi năm khoảng 56 km3 nước, cộng thêm 9 km3 nước mưa, đủ để bù đắp lượng nước bốc hơi khoảng 65 km3. Nhưng nay, chúng chỉ còn gửi đến Aral độ 7-8 km3 nước/năm, bằng 1/7-1/8 lượng cần thiết. Chính hệ thống dẫn thuỷ nhập điền ở các nước Trung Á đã phá vỡ thế cân bằng đó.
Một loạt hậu quả kéo theo. Trước tiên là nghề đánh bắt hải sản, rồi đến xưởng đóng tàu và nhà máy giấy… Đời sống của nhiều người dân trong vùng trở nên khốn đốn do nạn thất nghiệp tràn lan.
Trước tình hình đó, các chính quyền đương thời đã đề ra nhiều giải pháp. Trước tiên là đào một con kênh dài 2.400 km, chuyển nước từ hai con sông Ob và Irtych ở Siberi về Aral. Người ta đã cho nổ ba quả bom nguyên tử nhỏ để khởi công con kênh đào này. Nhưng rồi dự án bị bãi bỏ. Để cứu các nhà máy giấy, gỗ được nhập từ Siberi về. Để làm hồi sinh các nhà máy sản xuất đồ hộp, người ta dùng các toa tàu đông lạnh chở cá nguyên liệu từ vùng biển Barents ở cách đó 3.000 km! Tuy nhiên, việc này đã bị ngưng hẳn khi Liên Xô tan rã, hậu quả là dân cư ở Muynak và Aral’sk chỉ còn không đầy 50% so với trước đây.
Năm 1998, chính quyền Kazakhstan xây dựng một chiếc đập để trả nước về cho Aral. Nhưng vì không đủ kinh phí để bê tông hoá, đập chỉ được làm bằng đất và đá, nên mới đến năm 2000, dưới sức ép của nước, đập đã bị vỡ. Giải pháp cuối cùng là một đập nước bằng bê tông do các quỹ quốc tế tài trợ. Dự án này có thể trở thành hiện thực từ nay đến 2005. Bài học về sinh thái ở Aral là quá đắt, nhưng nó sẽ làm cảnh tỉnh nhiều nước đang định can thiệp quá sâu vào thiên nhiên.
Thế Giới Mới (theo Science et Vie Jr)