Đó là năm 1953, đại đội hơn trăm lính lê dương chiếm đóng đình Nhật Tảo, xã Đông Ngạc (huyện Từ Liêm) rồi ăn ở luôn trong đình, hàng ngày ra ngoài tuần tra.
Sợ giặc Pháp phá hoại, người làng Nhật Tảo chuyển toàn bộ đồ thờ tự ra văn chỉ - nơi thờ những người đỗ đạt khoa bảng, cách đình vài trăm mét. Những bát hương, lộc bình, đôi chóe... phủ chiếu nằm im một góc. Trong đó có chiếc chuông đồng nặng 6 kg, thân khắc kín chữ Hán, quai đúc nổi đôi thú đấu lưng vào nhau vẫn treo ở cửa đình nhiều năm trước.
"Chẳng ai biết lai lịch chiếc chuông, vẫn nghĩ là hiện vật đình chùa nào cũng có. Trong làng không có tích chuyện hay văn bản gì nhắc tới", ông Nguyễn Văn Thao, 83 tuổi, người gắn bó 30 năm với đình Nhật Tảo nhớ lại.
Ngôi đình nằm ven đê sông Hồng, thờ Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác. Làng Nhật Tảo trước còn gọi Nhật Cảo, vốn là đất đồn điền của nhà nước phong kiến. Khi định đô ở Thăng Long, nhà Lý lập ra chế độ "cảo điền", bắt những người có tội đến đây khai khẩn đất hoang trũng, gọi là "cảo điền nhi", mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc cho triều đình.
Năm 1339, Cung Tĩnh vương Trần Nguyên Trác, con thứ của vua Trần Minh Tông tròn 20 tuổi, được phong ấp tại đây. Ông bãi bỏ chế độ cảo điền, sắp xếp cư dân, lập làng xóm. Khi ông mất, dân lập miếu thờ, tôn làm thành hoàng làng Nhật Tảo. Ngôi miếu sau khởi dựng thành đình, còn giữ 26 đạo sắc phong thần qua các triều vua. Nhưng chiếc chuông xuất hiện trong ngôi đình khi nào, không ai biết.
Sau năm 1954, sân đình biến thành sân phơi hợp tác xã. Những năm 1965, bom Mỹ bắn phá Hà Nội, học sinh thủ đô sơ tán về các vùng ngoại thành. Lớp học vẫn mở ngay trong đình làng, giữa sân văn chỉ, trẻ em đến trường trong tiếng ầm ì của đạn bom. Quả chuông đồng treo trước sân văn chỉ, hàng ngày thay kẻng báo giờ vào, tan lớp, báo động cho học sinh xuống hầm trốn máy bay. Đám học trò nghịch ngợm nhiều lần tháo xuống chơi, gõ ầm ầm, gõ chán lại treo chuông lên.
Năm 1994, khi chính quyền xã Đông Ngạc làm hồ sơ công nhận di tích lịch sử, quả chuông cùng một số đồ thờ tự chuyển trở lại đình. Đoàn khảo sát về kiểm tra, mới xác định được tuổi thọ và giá trị chiếc chuông. Đầu năm 2020, chuông Nhật Tảo cùng 26 hiện vật khác được Chính phủ công nhận là bảo vật quốc gia.
Theo nghiên cứu của cố giáo sư Hà Văn Tấn, bài minh văn chữ Hán khắc trên thân chuông là nguồn sử liệu chữ viết sớm nhất về thế kỷ X, thời kỳ đầu tự chủ mà "chúng ta biết rất ít". Bài minh văn khắc ngày 29 tháng Tư năm Mậu Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ 6 (tức năm 948). Càn Hòa là hiệu của Lưu Thạnh, vua Nam Hán, một nước thời Ngũ đại thập quốc đóng đô ở Quảng Châu (Trung Quốc). Nhưng đây là quả chuông của người Việt, mà địa danh "thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ" trên thân chuông đã xác nhận.
"Niên hiệu Càn Hòa thứ 6" tức năm 948, thời điểm mà Dương Tam Kha đã chiếm ngôi nhà Ngô, tự xưng là Bình Vương được bốn năm. Nội dung minh văn nhắc đến Giáp Thìn 944, năm Ngô Quyền qua đời. Ông đã giành được nền độc lập, xưng vương nhưng vẫn chưa có niên hiệu và tình trạng ấy kéo dài suốt cả thời Ngô. Các văn bản thời đó, ghi năm tháng đều phải dùng niên hiệu của Nam Hán, dù đạo quân xâm lược này đã bị Ngô Quyền đánh tan tác trên sông Bạch Đằng năm 938.
Các địa danh nhắc đến trên thân chuông "thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ" cho thấy đơn vị hành chính đã xuất hiện từ sớm. Theo bài minh văn, huyện Giao Chỉ thời Ngô đã bao gồm cả Từ Liêm bây giờ. Quả chuông tìm thấy ở địa phận Từ Liêm, khẳng định chuông không xa rời nơi cũ khi bài minh được khắc là mấy.
Lịch sử cách mạng xã Đông Ngạc ghi lại, địa phương này do các làng cổ Nhật Tảo, Đông Ngạc, Liên Ngạc hợp thành. Địa chí hành chính xã ngày nay trải qua nhiều lần thay đổi, khởi đầu thuộc bộ Giao Chỉ. Gần nghìn năm Bắc thuộc, Đông Ngạc lần lượt nằm trong quận Giao Chỉ, Giao Châu, Từ Châu, Tống Bình, sau này là Từ Liêm.
211 chữ trên thân chuông đều khắc lần đầu, cùng một thời điểm, không có hiện tượng khắc lại hay khắc xen kẽ về sau. Minh văn đề cập đạo hiệu, pháp danh của những người công đức mua chuông. Họ đều tham gia một tổ chức tôn giáo thời bấy giờ, gọi là "xã", thuộc Đạo giáo và Nho giáo. Đây là tài liệu duy nhất cho thấy thế kỷ X, Đạo giáo và Phật giáo đã tồn tại song hành ở Việt Nam, trở thành cơ sở cho sự hình thành tư tưởng Đạo - Phật - Nho đồng hành trong đời sống tâm linh người Việt dưới triều đại Lý - Trần.
Đình Nhật Tảo nhiều lần mất trộm đồ thờ, từ chiếc hóa văn bằng đồng nặng hàng chục cân đến nậm rượu bé bằng nắm tay. Từ ngày biết quả chuông độc bản có tuổi thọ nghìn năm, sợ kẻ gian nhòm ngó, ban chấp hành phụ lão thôn họp bàn, quyết định mang đi giấu. Một buổi trưa, kẻ trộm cậy cửa, vừa lần mò vào hậu cung tìm kiếm. Bảo vệ đình phát hiện, tri hô, chúng leo lên ôtô chạy thẳng. Giờ các cụ lắp cả camera, còi báo động đề phòng. Có năm, lãnh đạo ngành văn hóa muốn đưa quả chuông ra bảo tàng trưng bày. Các cụ họp dân, bảo "mất thiêng" rồi không đồng ý.
Ông Thao cho rằng, quả chuông là chứng nhân hàng nghìn năm lập làng, giữ nước của người Nhật Tảo, trở thành vật thiêng có số phận. Dân làng muốn giữ gìn cũng là hợp lẽ, dù cho người ví von "có chiếc chuông quý giấu đi như con gái đẹp trong cung cấm không muốn cho ai nhìn".
Phương Lam