![]() |
Nhà thơ Bằng Việt. |
- Văn chương có ý nghĩa thế nào đối với anh?
- Văn học đối với tôi đã là một nhu cầu để sống, để cảm nhận và chiêm nghiệm từ rất lâu rồi, có lẽ từ thời còn học phổ thông trung học. Tôi đọc rất nhiều, có khi ghi chép một số điều mình tâm đắc qua các tác phẩm. Và ham muốn sáng tác của tôi cũng nảy sinh từ thời đó. Một số bài thơ đầu đời của tôi được viết từ năm 12-13 tuổi. Đến bây giờ nhu cầu được giãi bày, thổ lộ, bộc bạch… bằng các trang viết, đối với tôi vẫn không thay đổi.
- Anh nghĩ gì khi tập thơ đầu tay vừa được tái bản?
- Cuốn thơ Hương cây - Bếp lửa của tôi và Lưu Quang Vũ mới được tái bản sau 37 năm (lần đầu năm 1968), đương nhiên khơi gợi lại trong tôi nhiều kỷ niệm cảm động về một thời rất đầm ấm và chân tình khi tôi mới bước vào thơ, được sống trong một không khí bạn bè hào hứng với thơ, gắn bó với một thời hào hùng, chia sẻ với nhau bao nhiêu gian truân vất vả nhưng lại thấy tràn ngập hạnh phúc. Dễ gì cái không gian thơ đẹp đẽ thời ấy, ngày nay lại còn lặp lại?
- Tại sao anh lại tái bản "Hương cây - Bếp lửa" trong hiện trạng người đọc hờ hững với thơ?
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: "Sau 35 năm đọc lại Hương cây - Bếp lửa, dù ít nhiều bài thơ trong tập đã rơi rụng theo thời gian, nhưng những gì còn lại vẫn tươi non cái cảm xúc ban đầu trong tôi. Và không chỉ thế hệ tôi mà cả thế hệ sau vẫn còn tìm thấy ở tập thơ này sự đồng điệu và chia sẻ… Được bạn đọc thế hệ sau thuộc thơ mình, đấy chính là hạnh phúc lớn của nhà thơ". |
- Tôi không nghĩ rằng người đọc đang hờ hững hoặc lãng quên thơ. Vấn đề là thơ hiện nay có xu thế bị lạm phát, mạnh ai nấy in, mà trong nhiều trường hợp, lại là thơ của những tâm trạng và cảm xúc rất riêng tư, ít mang tính phổ quát, ít ý nghĩa xã hội hoặc chả liên quan gì đến cộng đồng đang sống quanh mình, nên mọi người không chú ý. Chưa kể, đây là thời bùng nổ thông tin, lại có quá nhiều phương tiện truyền thông và giải trí, nên không còn kiểu độc tôn như các cụ nói: "Duy hữu độc thư cao" (Chỉ có đọc sách là thú cao sang nhất).
Tuy nhiên, tôi cũng rất mừng là tập thơ Hương cây - Bếp lửa (NXB Văn học, 2005) và tập Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX (NXB Văn học, 2005) đều in với số lượng khá cao lúc này, mà đã bán gần hết trong 3 tháng. Đó cũng là một niềm vui bất ngờ đối với một người làm thơ và dịch thơ như tôi.
- Vậy theo anh, nên có cách nhìn thế nào đối với các nhà thơ đương đại của Việt Nam?
- Tôi đã đọc những cây thơ trẻ đương đại. Tôi thấy họ có ưu điểm riêng, có nét, những cảm xúc vượt xa khỏi lớp trước, họ có tài, đôi khi cái tài ấy cũng lóng lánh loé sáng lên đôi chút. Thế nhưng, vẫn còn là sự chợt loé mỏng mảnh của thiên tài mà thôi, không nên mới đó mà đã vội nhận vơ, tự xưng mình là thiên tài rồi. Tôi vẫn chờ đợi sự tích luỹ trưởng thành của từng tác giả. Ngoài ra, giới phê bình cũng nên công tâm khi đánh giá tác phẩm và hướng tác giả đi đúng con đường. Vì thật ra, người sáng tác bao giờ cũng phải đi qua cây cầu khỉ, có thể qua và có thể ngã.
- Về tập "Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX", khó khăn lớn nhất của anh khi dịch thơ là gì?
![]() |
Bìa cuốn "Thơ trữ tình thế giới thế kỷ XX". |
- Khó khăn lớn nhất khi tuyển dịch một tập thơ tiêu biểu cho các nhà thơ thế giới hiện đại là tìm kiếm cho đủ tư liệu, sau đó chọn dịch cái gì cho đích đáng. Tỷ lệ các bài chọn dịch thường chỉ chiếm khoảng 1/10 số bài tôi đã phải tìm đọc và cân nhắc có dịch hay không. Lại phải tính sao cho các nước, các khu vực trên thế giới có đủ mặt. Và tôi cũng không dịch lại những bài đã được dịch thành công. Cuối cùng là tìm đủ tư liệu để giới thiệu về tiểu sử, sự nghiệp từng tác giả, tóm tắt thôi, nhưng phải đầy đủ, cân đối. Nói chung, đó là một công việc khổ sai, rất tốn thời gian và công sức tra cứu, mà ít ai muốn làm. Tuy nhiên, khi vượt được mọi thử thách, lên khuôn cả tập sách dày dặn, thì tôi cảm thấy mình có thể thở phào, vui sướng và nhẹ nhõm.
Tôi chỉ tiếc là không có một nhà thơ Trung Quốc hiện đại nào được giới thiệu. Lý do là tôi không đọc được Hoa văn, còn tất cả các bản dịch thơ Trung Quốc ra tiếng Nga, tiếng Pháp và tiếng Anh đều không gây ấn tượng và cảm xúc cho tôi. Cân nhắc mãi, cuối cùng tôi không dịch.
- Tuy thế, không thể phủ nhận một thực tại rằng, văn học Trung Quốc đang rất mạnh, nhìn những tác phẩm được dịch với các giả như Mạc Ngôn, Giả Bình Ao… đặc biệt là những cuốn: "Thiếu nữ đánh cờ vây", "Nhật ký Mã Yến"… Anh nghĩ gì về điều này?
- Tôi đọc rất kỹ các tác phẩm văn xuôi Trung Quốc đương đại, từ những bản dịch đầu tiên trong thập kỷ 1990 như Một nửa đàn ông là đàn bà, Hoa mẫu đơn đỏ… đến các tác giả gần đây như chị vừa nhắc. Ấn tượng của tôi là được chứng kiến một nền văn học lớn bậc nhất của nhân loại đang hồi sinh và tiếp thêm những hơi thở mới. Trung thực đến tận đáy và thẳng thắn đến lạnh lùng, đó là ý nghĩ đầu tiên sau khi đọc. Rồi tiếp đó, tôi thấy được cả sự dũng cảm ghê gớm khi tự phanh phui mình, cuối cùng là một chủ nghĩa nhân bản sâu xa, tinh tế, thấm đẫm truyền thống Trung Hoa từ trong văn học cổ điển xuyên suốt đến ngày nay.
Phạm Ngọc Lương thực hiện