Nguyễn Hữu Hồng Minh -
Năm ngoái nhân dịp lần đầu tiên tổ chức Ngày Thơ Việt Nam tại Văn Miếu - Hà Nội, một phóng viên của báo điện tử Vietnam Net có hỏi tôi: "Là một nhà thơ trẻ, anh nghĩ thế nào về thơ hôm nay và hãy cho biết những suy nghĩ của anh ở góc độ thơ Trẻ ảnh hưởng và kế thừa như thế nào từ thơ truyền thống – thơ đương đại?". Đây là một câu hỏi thú vị nhưng hóc búa. Cuối cùng thì tôi đã từ chối không trả lời cuộc phỏng vấn này vì không dễ trả lời. Nhưng suốt thời gian một năm qua khi có dịp tôi vẫn thường chiêm nghiệm về câu hỏi. Bởi không dừng lại ở một câu phỏng vấn (vì bài báo đã hoàn thành và đã được đưa lên mạng từ lâu), mà ý nghĩa của câu hỏi này, theo tôi, liên quan rất nhiều đến những cuộc tìm kiếm mới, những con đường đi mới của các những người làm thơ trẻ hôm nay.
Theo tôi, thơ Trẻ và thơ truyền thống có những đặc điểm sau:
1. Thơ Trẻ ảnh hưởng rất nhiều từ thơ truyền thống. Nói cách khác, không có thơ truyền thống thì không thể có phong trào gọi là thơ Trẻ được. Sự tiếp nối này chẳng có gì khác biệt, đó là thơ của thế hệ mới, thơ của những người trẻ tuổi hôm nay. Họ đang ở giữa dòng chảy tiếp cận với nhiều luồng thông tin văn hóa, chứng kiến những thay đổi chóng mặt trên toàn thế giới. Và đặc biệt hơn, những đổi thay ở một đất nước dân chủ và đổi mới. Bắt đầu ủng hộ, triển khai mọi hướng. Có xu thế thăm dò và cổ vũ mọi tìm kiếm, mọi thể nghiệm trong nghệ thuật Thơ của người viết trẻ...Tôi nói như thế liệu có lạc quan quá không? Nhưng bản thân tôi trước sau vẫn dự cảm như thế và đã viết đúng như thế. Đó là thế hệ dò tìm, phác họa chân dung, gương mặt của chính mình sau chiến tranh. Nói cách khác, giả sử cha anh chúng tôi đã sinh trưởng vào thời điểm như chúng tôi, thế hệ của e-mail, chat, internet..., khi thông tin đang mở rộng và thu hẹp lại thế giới, thì chắc họ cũng phải trăn trở, cũng phải thể nghiệm như chúng tôi. Không còn cách nào khác. Và chúng tôi, nếu sinh ra vào bối cảnh đất nước đang có chiến tranh thì cũng phải lên đường cầm súng, bảo vệ Tổ quốc. Đó là niềm tin, lòng tự hào và ý thức dân tộc. Gần đây có tác phẩm "Người Trung Hoa xấu xí" của nhà văn Trung Quốc Bá Dương gây dư luận đã được giới thiệu mấy kỳ trên báo Văn gghệ Trẻ. Và tôi biết ở Hà Nội, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Đức đang hoàn chỉnh tác phẩm "Người Việt tự ngắm mình". Viết ra điều này, tôi muốn nói rằng mỗi người, mỗi thế hệ đều có những thời điểm và có lịch sử cho riêng mình. Chính vì điều ấy, có nhiều bài phê bình cho rằng thơ Trẻ đang có xu hướng phủ nhận những thành tựu trong quá khứ. Theo tôi, đó là những nhận định không xác đáng, thiếu căn cứ và sai lầm. Sự thật để có thể viết mới hơn cha anh họ, những thế hệ đi trước, thì những nhà thơ trẻ trước hết phải nghiên cứu, học tập, hệ thống. Và khi thực sự am hiểu họ sẽ thấy những thành tựu đã làm được trong quá khứ thật không đơn giản. Điều đó bắt buộc họ phải tôn trọng những giá trị đã làm ra. Trên cái nền ấy họa may họ tiếp tục phác vẽ những gương mặt thơ tương lai. Bởi vì mỗi thời đại, mỗi thế hệ chỉ có một gương mặt Thơ. Những cái tên, những "đỉnh thơ" hay "núi thơ" như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Thanh Tâm Tuyền...đến Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Trúc Thông, Ý Nhi, Hoàng Hưng...là những cột mốc đã ghi dấu và sẽ ghi dấu trong lịch sử thi ca. Những tác phẩm, tài năng ấy đặt trên một nền tảng, bao trùm một bối cảnh lịch sử lớn. Thơ Trẻ chỉ cách tân thành công khi hiểu được tiến trình của thơ hôm nay là có sự đóng góp, nổ lực của nhiều thế hệ. Như một ý thơ của nhà thơ Tây Ban Nha, Antonio Porchia: " Tất cả những gì thay đổi sẽ để lại một vực thẳm sâu ở ngay bên cạnh sự thay đổi".
2. Từ góc độ cá nhân, theo tôi, đã làm nghệ thuật, làm thơ không thể không bị ảnh hưởng. Tôi vẫn quan niệm, thi ca hiện đại là làm mới lại ngôn ngữ, trả lại cho ngôn ngữ sự trung tính lười biếng của nó. Thực ra ngôn ngữ rất ít hoạt động. Nó "ngủ" là chính. Nó chỉ thức dậy và quậy tung náo loạn do ý thức điều khiển của bộ não và cảm giác. Nó cũng không có từ đẹp hay từ xấu. Từ đẹp hay xấu là do cảm quan cá nhân của người sử dụng và bối cảnh sử dụng. Có nghĩa, bản chất ngôn ngữ vốn trong suốt. Việc "tô màu" cho nó là do cảm tính của người sử dụng hay các nhà thơ. Chúng ta thường ác cảm và sử dụng ngôn ngữ theo những thói quen. Điều đó thật nguy hiểm cho thơ. Bởi nó đã làm cản trở rất nhiều về cách tiếp nhận. Và chúng ta chưa bao giờ đủ dũng cảm để đi hết tận cùng bản chất dù chỉ một Từ để thấy nó khiếp đảm và khủng khiếp như thế nào? Mà thơ là gì nếu không phải tạo ấn tượng từ những liên kết Từ hay những tổ hợp Từ? Có một sự thật, các nhà thơ, nhà văn Việt Nam thường hay "bày trò", hư cấu chuyện của người khác, thậm chí tạo những "phản đề" từ những nhân vật lớn trong lịch sử như Gia Long, Quang Trung, Hồ Chí Minh... nhưng lại không chịu nổi, thậm chí "đi thưa kiện" khi có ai đó ngay trong thời đại của mình dám "hư cấu" về mình. Họ cho rằng họ quan trọng hơn lịch sử hay lớn hơn lịch sử chăng? Đó là một ảo tưởng hèn kém. Cái nữa, cho thấy cái tôi hẹp hòi còn xoay trở rất khó khăn với nhiều định kiến của họ. Tại sao khi họ dám xây dựng, tạo ra được 1 nhân vật thì lại không dám để mình biến thành một nhân vật trong mắt kẻ khác? Cho dù nói phỏng theo J.P. Sartre: "Đó là địa ngục". Điều đó càng khó khăn cho các thể nghiệm thơ khi thực tế của thơ Việt cần phải phá vỡ mọi cấu trúc, trường phái, mọi lý thuyết đã dựng sẵn và có sẵn. Dò tìm gương mặt mới, hậu hiện đại. Hỗn loạn, phi tuyến tính và vô giới hạn.
Những nhà thơ trẻ thường hay "ăn sẵn" và chịu ảnh hưởng ở thời kỳ đầu. Họ bị hớp hồn bởi trường lũy các thành tựu. Họ bị các bóng tượng đài ám ảnh. Sẽ chỉ có một số ít trong số họ bứt ra "nhiễu từ" đó để có khả năng trở thành những tác giả đi lâu dài với thơ, tiếp cận được bản chất lớn lao của nghệ thuật Thơ.
Cũng sẽ có nhiều nhà thơ trẻ không thể bứt ra khỏi cái bóng quá lớn của thần tượng họ. Họ đã bị hút tê liệt như nam châm hút sắt. Họ không thể có được tiếng nói của riêng mình. Họ đã thở qua vòm họng của kẻ khác. Họ tự diễn đạt sự nhu nhược của mình bằng lưỡi của người khác.
3. Có thi sĩ tôi bị ảnh hưởng đôi nét ban đầu, trong số đó nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là một. Và sự thật, tôi luôn tìm cách "bắn hạ" ông trong tâm thức của mình. Nhiều khi để thơ hay, độc sáng hơn chúng ta cần phải "khai tử" một vài nhà thơ mà chúng ta yêu mến. Và tôi đã vượt qua được. Cũng như nhiều ý niệm về nghệ thuật thơ của nhà thơ Vladimir Holan (qua bản dịch của nhà thơ Diễm Châu) rất tương đồng với tôi. Tôi cảm thấy tâm thức tôi được lay động và thức tỉnh. Vấn đề của thơ Trẻ bây giờ là cứ phải tiếp lửa nhưng cần bước qua được những gì thế kỷ trước đã làm. Nếu không chúng ta sẽ chỉ là những cái bóng nhạt mờ và câm lặng.
Như vậy thấy rõ các nhà thơ trẻ không thể không ảnh hưởng thơ truyền thống và thơ của các nhà thơ lẫy lừng đi trước trong và ngoài nước. Từ ảnh hưởng để kế thừa, từ kế thừa và cắt bỏ là một cuộc chiến đấu nghệ thuật kinh hoàng và gian nan. Đó là những thử thách nặng nề của những nhà thơ trẻ trên biên trường ngữ nghĩa. Bởi vậy, nếu có một Ham-lét thi sĩ thì chàng ta sẽ nói sao? Chắc có lẽ là: "Tồn tại hay sáng tạo?"...
Đà Nẵng, mồng Một Tết Giáp Thân, 2004