Dù nguyên nhân là gì, các sự cố y khoa đều ảnh hưởng tới sức khỏe người bệnh và làm giảm lòng tin của xã hội với ngành y. Đã có nhiều bài học trong quá khứ, và mới đây nhất, gần đến ngày kỷ niệm truyền thống ngành y 27/2, một bệnh nhân lại bị làm thủ thuật nhầm tại Bệnh viện Đa khoa Lâm Đồng.
Người bệnh có tiền sử bệnh sỏi thận hơn 17 năm nay, đã được mổ, tán sỏi hai lần. Gần đây ông bị đau, tái phát. Sáng 20/2, ông được vợ đưa đến bệnh viện, được chỉ định chụp X-quang. Bác sĩ thông báo ông có dị vật dài khoảng 30 cm trong bụng, có thể chính là ống sonde mà chuyên ngành gọi là sonde jj, được đặt trong đường tiết niệu sau khi tán sỏi tiết niệu. Sau khi tán sỏi, khoảng 3-6 tháng sẽ nội soi qua đường tiết niệu lại để rút sonde ra, cũng có trường hợp người bệnh quên nên để sonde lâu hơn. Khi phát hiện còn sonde jj thì cần phải nội soi lại để lấy ra.
Nhưng khi làm thủ thuật, bác sĩ không tìm thấy ống xông đâu. Hóa ra ê-kíp đã nhầm phim chụp đường tiết niệu của người khác.
Ở trường hợp này bệnh viện sẽ phải rút kinh nghiệm và khắc phục thỏa đáng cho người bệnh. Còn với bạn đọc, tôi có thể giải thích như sau: Sự cố y khoa tập trung chính ở hai khâu: chẩn đoán và điều trị bệnh. Ở khâu chẩn đoán, sự cố y khoa là xét nghiệm chụp chiếu sai. Các kết quả xét nghiệm chụp chiếu (nói gọn là xét nghiệm) sai dẫn đến chẩn đoán sai và hệ quả là điều trị sai.
Sai số trong các xét nghiệm được chia ra ba giai đoạn: trước, trong và sau xét nghiệm. Giai đoạn ở giữa, trong khi xét nghiệm bằng máy móc ít sai số nhất, thường dưới 5%. Tức là máy móc ít khi sai. Sai số chủ yếu do giai đoạn chuẩn bị trước xét nghiệm, chiếm tới 70%; còn lại là giai đoạn trả kết quả sau xét nghiệm, chiếm trên 15%. Như vậy sai sót của xét nghiệm chủ yếu do con người.
Trong những buổi tập huấn về giảm nguy cơ sai sót trong y khoa, chúng tôi được học về lý thuyết tiếp cận hệ thống trong xác suất xảy ra lỗi. Lý thuyết nói rằng mỗi một lỗi xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên, mà là kết quả của một chuỗi sai sót trước đó. Đó là lý do vì sao các quy trình quy định trong y khoa thường rất mất thời gian và phiền phức, nhưng là để giúp hạn chế tối đa sai sót.
Một báo cáo của các nhà nghiên cứu trường Đại học Johns Hopkins, Mỹ, đăng trên tạp chí BMJ nói hơn 250.000 cái chết mỗi năm ở Mỹ là do những sai sót về y khoa, đứng hàng thứ ba các nguyên nhân gây tử vong. Ở Anh, nghiên cứu của Đại học Manchester (Anh) xem xét 337.025 hồ sơ bệnh nhân từ năm 2000 đến 2009 cho thấy nhân viên y tế mắc sai lầm khi điều trị cho 6% bệnh nhân. Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ sai sót còn cao hơn. Nghiên cứu 15.548 hồ sơ của 26 bệnh viện thuộc 8 nước châu Phi (Egypt, Jordan, Kenya, Morocco, Tunisia, Sudan, Nam Phi và Yemen) vào năm 2005, cho thấy tỉ lệ tai biến điều trị dao động từ 2,5 đến 18,4% trong tổng số bệnh nhân nhập viện. Ở Việt Nam, ít có nghiên cứu nào về sai sót y khoa được công bố.
Trong mỗi một trường hợp nhầm lẫn sẽ có nguyên nhân cụ thể. Ví dụ trong chụp X-quang, trên phim chụp bao giờ cũng có tên bệnh nhân in kèm, nên khi đọc phim bác sĩ sẽ dễ dàng nhận ra nếu có nhầm phim. Sự cố nhầm phim nói trên xảy ra là khá hy hữu, theo Sở Y tế Lâm Đồng, do nhân viên đã ghép tên người này trên phim nhưng khi gọi vào chụp thì người khác vào thay. Như vậy sai sót có thể xảy ra là ở khâu nhân viên chụp không hỏi lại lần cuối xem bệnh nhân tên là gì.
Để giảm sai sót y khoa không thể chạy theo từng vụ việc, mà có nhiều việc phải làm, từ cải thiện các điều kiện có tính chất hệ thống liên quan đến bệnh viện cho tới tập huấn thường xuyên nâng cao trình độ của các nhân viên. Những việc đó cần làm thường xuyên, liên tục, không có điểm kết thúc, nhằm thiết lập hệ thống khó mắc lỗi nhờ các quy trình chặt chẽ với sự giúp đỡ của công nghệ thông tin, xây dựng văn hóa an toàn cho người bệnh.
Ngoài ra, văn hóa "không tấn công, buộc tội cá nhân" cũng cần được hình thành, bắt nguồn từ nhận thức rằng sai sót xảy ra không chỉ là lỗi của một cá nhân cụ thể, mà một phần là lỗi của hệ thống. Một khi đạt được tiếng nói chung trong văn hóa không buộc tội cá nhân, các sai sót y khoa mới dễ dàng được công khai, minh bạch, tạo điều kiện để hoàn thiện hệ thống, tiến tới giảm dần các sự cố.
Trở lại trăn trở của tôi ở đầu bài viết, tôi thấy ngành y rút cuộc là ngành của mối quan hệ giữa con người với con người. Trái với những dự đoán rằng, do sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), nghề y sẽ sớm bị thu hẹp, tôi cho rằng, máy móc không thể nào thay được con người trong y khoa.
Không ngừng cẩn thận, tận tâm, người thầy thuốc sẽ dần dần lấy lại niềm tin của người bệnh.
Quan Thế Dân