Thành lập năm 1902, Trường Y khoa Đông Dương (École de Médecine de l’Indochine), tiền thân của Đại học Y Hà Nội, ban đầu chỉ đào tạo "cán bộ y tế" và nữ hộ sinh. Năm 1907, khóa Y sĩ Đông Dương đầu tiên tốt nghiệp.
Từ năm 1933, trường có đủ điều kiện đào tạo ngạch bác sĩ quốc gia (doctorat d'Etat), tiến sĩ y khoa. Bác sĩ tốt nghiệp phải làm luận án và giáo sư của Đại học Paris sang chủ tọa kỳ thi tại Hà Nội.
Sau 1954, miền Bắc duy trì đào tạo ngành y ở ba cấp độ: trung cấp 2-3 năm, đào tạo ra y tá, phụ tá cho bác sĩ; cao đẳng 3-4 năm, đào tạo ra y sĩ, có thể độc lập khám bệnh và kê đơn; và cao nhất là đại học, 6 năm, đào tạo ra bác sĩ.
Trong lịch sử phát triển ngành y, trình độ y sĩ gây ra nhiều tranh luận nhất. Họ đã gánh vác trách nhiệm ở trạm y tế xã, thậm chí cả ở các bệnh viện huyện một thời gian dài, góp phần quan trọng hoàn thành các chương trình y tế cộng đồng ở vùng nông thôn rộng lớn.
Tuy nhiên khi nhiệm vụ lịch sử đã hết, việc tiếp tục duy trì hệ đào tạo này đã tạo điều kiện hình thành "con đường tắt", biến nhiều y sĩ trở thành bác sĩ sau vài năm thông qua hình thức học liên thông chuyên tu, tại chức. Xã hội một thời dị nghị với những bác sĩ chuyên tu, bác sĩ tại chức. Đỉnh cao của loại hình đào tạo này là vào thập niên 1990-2000.
Sau này ngành y hạn chế và chấm dứt đào tạo y sĩ nhưng nhu cầu xã hội về bác sĩ vẫn rất cao, hệ thống chính quy không đáp ứng được. Các con đường thay thế khác tất yếu sẽ nảy sinh.
Điểm mới trong việc cung cấp nhân sự cho ngành y là khi trường tư được đào tạo bác sĩ. Các trường y và khoa y liên tiếp ra đời, cung cấp cho xã hội lượng lớn bác sĩ, bất chấp sự phản đối từ các trường y truyền thống và sự nghi ngại của dư luận về chất lượng đào tạo của các trường, mà nhiều trong số đó lấy đầu vào dưới 20 điểm.
Hệ thống sau đại học còn rắc rối hơn. Hai chục năm liền các trường miền Bắc không đào tạo sau đại học. Cán bộ trình độ sau đại học chủ yếu đào tạo từ Đông Âu. Năm 1974, Đại học Y Hà Nội lần đầu tiên mở chương trình bác sĩ nội trú bệnh viện, là hệ sau đại học đầu tiên, theo mô hình của Pháp.
Năm 1975, một số trường lớn bắt đầu thử nghiệm chương trình sau đại học, theo mô hình của Liên Xô, gồm bậc học phó tiến sĩ (Kandidat nauk) và tiến sĩ (Doktor nauk). Ngành y đưa ra hệ thống sau đại học của riêng mình là bác sĩ chuyên khoa cấp 1 (CKI) và cấp 2 (CKII), được thiết kế tương đương phó tiến sĩ và tiến sĩ.
Sẽ có người thắc mắc, vì sao lại gọi hệ sau đại học là CK I, II. Lý do là sinh viên y năm thứ sáu đã phân khoa, tốt nghiệp xong thì được gọi là bác sĩ chuyên khoa sơ bộ. Nên một cách tự nhiên, học sau đại học được gọi theo nấc thang tiếp theo là CK cấp I, cấp II.
Hai bộ Giáo dục và Y tế thống nhất công nhận tương đương bằng cấp, bằng cách cho phép học bổ sung một vài môn để thi chuyển đổi. Lúc đó có một đợt thi chuyển đổi duy nhất trong trường đại học dành cho giảng viên, ai may mắn kịp chuyến đò, sẽ từ bác sĩ CKI thành phó tiến sĩ, CKII thành tiến sĩ.
Đến năm 1998, theo Luật Giáo dục, hệ thống bằng cấp sau đại học là thạc sĩ và tiến sĩ, phó tiến sĩ được chuyển thành tiến sĩ. Tiến sĩ là bậc đào tạo cao nhất của quốc gia, là điều kiện đầu tiên để được phong các học hàm phó giáo sư, giáo sư.
Như vậy, đáng lẽ ngay từ thời điểm này, Bộ Y tế đã có thể bỏ bằng bác sĩ CKI, II để thống nhất văn bằng với Luật Giáo dục. Tuy nhiên, vì một số lý do nào đó mà văn bằng CKI, II vẫn được duy trì, gây nên nhiều hệ lụy cho người học sau này.
Sau một thời gian bối rối, hệ thống được sắp xếp lại: Hệ bác sĩ CKI, II thiên về thực hành, còn hệ thạc sĩ - tiến sĩ thiên về nghiên cứu.
Thông tư liên tịch 30/2003 tiếp tục cho phép bác sĩ CKI và II chuyển đổi thành thạc sĩ - tiến sĩ nếu đỗ các kỳ tuyển sinh cao học và nghiên cứu sinh, học bổ sung thêm các môn còn thiếu, bảo vệ thành công luận văn - luận án.
Bằng thuộc hệ thống bằng cấp quốc gia như thạc sĩ y khoa sẽ được học lên tiến sĩ, vừa làm lâm sàng trong bệnh viện, vừa giảng dạy trong các trường đại học y, từ đó có cơ hội vươn tới học hàm phó giáo sư, giáo sư y khoa.
Bằng CKI, II được công nhận là bằng sau đại học trong hệ thống y tế, đủ chuẩn để bổ nhiệm trưởng khoa hay giám đốc bệnh viện, thậm chí giám đốc sở y tế. Tuy nhiên, do chỉ được công nhận trong nội bộ Bộ Y tế, thiên về thực hành, nên bác sĩ CKII không có cơ hội được phong phó giáo sư hay giáo sư.
Điểm này là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh tranh luận như vừa rồi, đòi công nhận bằng bác sĩ CKI, II thuộc hệ thống bằng cấp quốc gia. Một số người còn cực đoan cho rằng bác sĩ chuyên khoa mới là bác sĩ giỏi, rằng bác sĩ thì chỉ cần giỏi lâm sàng, không cần ngoại ngữ, không cần phải biết nghiên cứu khoa học...
Các rắc rối này có phần do yếu tố lịch sử. Chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội sắp xếp lại hệ thống bằng cấp ngành y theo chuẩn chung quốc gia.
Một trong số cơ hội đó là dự thảo từng có về hệ thống bằng cấp như sau: sau bốn năm học, sinh viên sẽ nhận bằng cử nhân y khoa, có thể đi làm ngay một số việc liên quan tới y tế. Học tiếp hai năm sẽ nhận bằng thạc sĩ, có thể trở thành bác sĩ gia đình hoặc hành nghề tại các phòng khám ban đầu. Học tiếp 3-4 năm chuyên khoa sâu, sẽ nhận bằng tiến sĩ y khoa, trở thành chuyên gia trong lĩnh vực đó.
Học vị tiến sĩ sẽ đi kèm tên của lĩnh vực, như tiến sĩ tim mạch, tiến sĩ sinh hóa... thông báo rõ người đó thuộc chuyên môn nào, trong lâm sàng hay phòng thí nghiệm.
Như vậy, lộ trình đào tạo y khoa này sẽ tương tự các ngành nghề khác, tránh thiệt thòi cho sinh viên y, khi mà học sáu năm ra vẫn bị coi tương đương cử nhân; đồng thời giải quyết được sự phức tạp chồng chéo của hệ thống bằng cấp sau đại học hiện nay.
Phương án này cũng kết thúc luôn vai trò lịch sử của danh xưng "bác sĩ", vốn rất mơ hồ, không giống các danh xưng về nghề y trên thế giới. Từ "bác sĩ" trong tiếng Hán chỉ những người học rộng, giống như từ "bác học", vốn không liên quan gì đến nghề y cả. Người Việt những năm đầu thế kỷ 20 đã dùng từ "bác sĩ" để dịch từ "doctor" của tiếng Pháp, góp phần gây nên hiểu lầm về bằng cấp cho tới nay.
Thời gian thử nghiệm đã đủ lâu, ngành y cần tổng kết các loại bằng cấp, để tinh gọn lại cho phù hợp với hệ thống giáo dục quốc gia.
Quan Thế Dân