
Ông Vương Hữu Tấn, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân. Ảnh: Việt Anh
Ông Vương Hữu Tấn, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN), Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN), trao đổi với báo chí chiều nay.
- Ông đánh giá về mức độ nguy hiểm khi nguồn phóng xạ ở Vũng Tàu bị thất lạc như thế nào?
- So với nguồn phóng xạ bị thất lạc ở TP HCM tháng 9 năm ngoái thì nguồn này có cường độ nhỏ hơn 1.000 lần, nhưng điều đó không có nghĩa nó không nguy hiểm. Với hoạt độ hiện tại khoảng 2,33mCi, ở khoảng cách tiếp xúc 10 cm, nguồn phóng xạ bị mất ở Vũng Tàu có thể gây ra liều chiếu xạ khoảng 2,5 mSv/giờ. Trong khi một người dân bình thường trong một năm chỉ được phép chịu một liều bức xạ 1mSv trong một giờ. Việc bị ảnh hưởng tùy thuộc vào thời gian tiếp xúc, khoảng cách tiếp xúc, vì khoảng cách càng xa thì nó càng giảm, cứ xa thêm 1 m thì nó giảm đi 100 lần.
- Tiến độ tìm kiếm hiện nay thế nào, thưa ông?
- Việc đầu tiên là ưu tiên công tác tìm kiếm, chúng tôi đang cố gắng tìm ra giải pháp tìm kiếm. Có ba phương án, thứ nhất là đề nghị phía công an, an ninh điều tra để xác định rõ các kênh có khả năng mang nguồn phóng xạ đó ra ngoài. Trên cơ sở nắm được các đối tượng, chúng ta sẽ phỏng vấn và đặt ra các kịch bản tìm kiếm. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, nguồn phóng xạ bị đưa ra ngoài rồi thường bị bán dạng phế liệu, nó là cục sắt, đường kính bên ngoài khoảng 15 cm, dài 45 cm, nặng khoảng 45-50 kg. Nếu các đối tượng bán ra hàng phế liệu, chúng ta phải mang hình ảnh đến các cơ sở mua bán phế liệu, hỏi xem mấy tháng gần đây họ có thấy không, đồng thời mang cả thiết bị đo đi để kiểm tra, nếu họ khai không đúng hoặc nhớ không chính xác cần kiểm tra xem phóng xạ có bị rơi rớt ra ngoài hay không.
Thứ hai, nguồn phóng xạ đó cũng chứa chì, nhiều khả năng các đối tượng đưa đến các cơ sở thu mua phế liệu để đúc chế chì. Chúng ta cũng cần cho những người này xem tư liệu và tiến hành đo đạc.
Thứ ba, nếu thanh nguồn đó được bán trở lại cho nhà máy tái chế thép, các cơ quan chức năng phải đến các nhà máy tái chế, mang máy đến đo. Nếu họ nấu ra thành các sản phẩm khác thì cũng có thể ghi được phóng xạ.
Đó là ba kênh đang tập trung tìm kiếm, mấy ngày nay chúng tôi đang tập trung tìm ở tỉnh Bà Rịa, nếu không thấy có thể mở rộng ra các tỉnh lân cận như Đồng Nai, TP HCM, Bình Dương, là các tỉnh có nhiều cơ sở tương tự như vậy.
- Vậy phương án nguồn phóng xạ nằm dưới 10 m rác thì sao?
- Tôi cho rằng công an cần hỏi kỹ hơn người báo thông tin này, đồng thời triệu tập những người làm công việc nhặt rác ở khu vực đó để tìm thông tin. Giả sử đúng là thanh đó bị chôn sâu dưới 10 m, thì phải điều tra kỹ mới duyệt phương án đo đạc và đào lên.
- Dự kiến việc tìm kiếm kéo dài mất bao lâu?
- Việc này khó có thể nói trước, vì còn tùy theo phạm vi tìm kiếm. Chúng tôi cùng tham gia với Vũng Tàu, họ đang thành lập tổ tìm kiếm. Tỉnh cần đưa ra phương án, thống kê những nơi nào, thời gian cần đi bao lâu. Cục ATBXHN không có quy định nào về thời gian, tùy tình hình thực tế và tổ công tác ở địa phương quyết định. Đến lúc nào tỉnh xin dừng tìm thì phải có kiến nghị sau đó.
- Phương án gắn thiết bị định vị với các nguồn phóng xạ được xem xét thế nào?
- Thực chất việc gắn chip này chúng ta đã cam kết từ năm 2012, tại Hội nghị thượng đỉnh an ninh hạt nhân ở Hàn Quốc, có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham gia. Việt Nam đã ký cam kết hợp tác với Hàn Quốc để thực hiện việc này. Bước đầu Hàn Quốc sẽ viện trợ cho Việt Nam 30 bộ thiết bị để giám sát. Ngay sau khi xảy ra vụ tháng 9 năm ngoái tại TP HCM, Bộ KHCN đã chỉ đạo phải sửa đổi Thông tư 23 (Thông tư Quản lý an ninh nguồn phóng xạ), làm sao phải có các giải pháp kỹ thuật để kiểm soát được an ninh các nguồn phóng xạ hoạt động di động. Việt Nam có rất nhiều nguồn phóng xạ hoạt động di động, đó là các đối tượng ưu tiên cần gắn thiết bị định vị.
Chúng tôi đã sửa đổi Thông tư 23, dự kiến ban hành trong tuần này hoặc tuần sau.
- Khi nào sẽ thực hiện gắn thiết bị định vị?
- Trong năm nay việc gắn thiết bị định vị phải được thực hiện. Khuôn khổ luật pháp sắp xong rồi, là Thông tư 23. Về thiết bị, hiện có 3 đơn vị có khả năng tham gia đáp ứng nhu cầu, có cả phần cứng và phần mềm. Cục ATBXHN sẽ đề xuất trình một đề án trình cho Bộ KHCN để đầu tư phần mềm quản lý và hệ thống máy tính. Các cơ sở bức xạ phải có trách nhiệm mua các thiết bị đầu cuối gắn vào thiết bị của họ. Chi phí các cơ sở phải mua, trả tiền thuê internet như điện thoại, đó là trách nhiệm của họ. Chi phí này không đắt lắm, ngân sách chỉ dành cho phần mềm của Cục.
Chúng tôi đặt ra yêu cầu cho hệ thống giám sát này. Thiết bị phải đảm bảo vị trí nguồn đang ở đâu, hai là có phóng xạ hay không, để nó luôn truyền thông tin về hệ thống quản lý giám sát đặt tại Cục ATBXHN. Khi có bất kỳ thay đổi nào đó ngoài kiểm soát, ví dụ như mất tín hiệu phóng xạ sẽ có cảnh báo ngay, phát ra tín hiệu để để báo cho người quản lý an toàn bức xạ ở Cục ATBXHN biết nguồn đó là nguồn nào, của ai, đang ở tọa độ nào. Thứ hai là báo cho Sở KHCN ở địa phương nơi nguồn phóng xạ đang định vị, thứ ba là báo cho chủ cơ sở quản lý nguồn đó. Để khi cả ba bên cùng biết để có hành động kịp thời, sẵn sàng xử lý ngay khi có bất thường.
- Theo ông vì sao lại xảy ra việc thất lạc nguồn phóng xạ?
- Quản lý bao gồm thứ nhất hoàn thiện đầy đủ hệ thống văn bản, hai là có lực lượng kỹ thuật để thẩm định cho việc cấp phép, ba là vấn đề thanh tra, xử lý vi phạm. Với vấn đề hệ thống văn bản, sau khi có Luật năng lượng nguyên tử năm 2008, chúng tôi đã xây dựng đầy đủ các văn bản quản lý nguồn phóng xạ, từ việc xuất nhập khẩu thế nào, vận chuyển, lắp đặt, sử dụng, tháo gỡ và chấm dứt hoạt động, đây là quy trình về vòng đời của nguồn phóng xạ khi vào Việt Nam và được sử dụng. Vấn đề hiện nay là các cơ sở phải tuân thủ các quy định đó, những sự cố xảy ra vừa qua là do các cơ sở chưa nhận thức được đầy đủ, chưa quán triệt, chưa hiểu. Nếu họ tuân thủ đầy đủ các quy định này thì chắc chắn không xảy ra việc mất nguồn phóng xạ. Hàng năm Cục ATBXHN có đi thanh tra kiểm tra, tất nhiên hiện nay số lượng rất lớn, Cục không đủ người đi thanh tra hết. Chúng tôi kết hợp với các Sở KHCN, thường có sự hợp tác tốt giữa Cục và các sở KHCN trong vấn đề này.
- Việc thất lạc nguồn phóng xạ có xảy ra ở các nước khác?
- Trên thế giới từng xảy rất nhiều vụ thất lạc, mặc dù các nước đều có quy định về quản lý rất mạnh mẽ. Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), thống kê từ năm 1993-2012 có 615 vụ mất nguồn, trung bình mỗi năm có 35-40 vụ mất. Gần đây nhất là tháng trước, tại Ba Lan mất 20 nguồn phóng xạ tương tự như nguồn phóng xạ của Vũng Tàu, đến nay họ vẫn chưa tìm thấy. Khi đã xảy ra, chúng ta cần nỗ lực tối đa để tìm kiếm, nếu không tìm được, cơ quan quản lý cùng chủ nhà máy phải có giải pháp báo cáo với các cấp lãnh đạo xem các bước tíêp theo sẽ là như thế nào, trách nhiệm của những người liên quan, thông báo cho người dân như thế nào. Sau thời gian nỗ lực tối đa, nếu không có khả năng tìm thấy, lúc đó sẽ đóng lại việc đi tìm và đề xuất kiến nghị với Chính phủ.
Việt Anh ghi