Vào 16h55 ngày 11/10 (giờ Hà Nội), Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công bố giải Nobel Kinh tế học 2021 thuộc về 3 nhà khoa học David Card, Joshua Angrist và Guido Imbens.
David Card, sinh năm 1956 tại Canada, giảng dạy tại Đại học California, Berkeley (Mỹ) đã được trao một nửa giải Nobel năm 2021 "vì những đóng góp thực nghiệm với kinh tế lao động".
Trong khi đó, hai nhà khoa học Joshua Angrist (sinh năm 1960) của Viện Công nghệ Massachusetts và Guido Imbens (sinh năm 1963) của Đại học Stanford nhận một nửa giải Nobel còn lại "vì những đóng góp về phương pháp luận trong việc phân tích các mối quan hệ nhân quả".
Các công trình của 3 nhà khoa học này được rút ra từ các thí nghiệm ngoài ý muốn, hay còn gọi là "thí nghiệm tự nhiên". Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển cho biết đánh giá, chủ nhân của giải Nobel Kinh tế 2021 đã "hoàn toàn định hình lại công việc thực nghiệm trong khoa học kinh tế".
Cũng theo tổ chức này, 3 nhà khoa học "đã cung cấp cho chúng tôi những hiểu biết mới về thị trường lao động và chỉ ra những kết luận về nguyên nhân và kết quả có thể được rút ra từ các thí nghiệm tự nhiên". Cách tiếp cận của họ đã lan rộng sang các lĩnh vực khác và cách mạng hóa nghiên cứu thực nghiệm.
Đầu những năm 1990, Card có một nghiên cứu thực nghiệm về tác động của việc tăng lương tối thiểu ở bang New Jersey (Mỹ) đối với lĩnh vực thức ăn nhanh. Kết quả nghiên cứu đã dẫn đến đánh giá thông thường rằng, mức tăng lương như vậy luôn dẫn đến việc giảm tuyển dụng.
Một nghiên cứu khác của ông là tác động của chính quyền Cuba vào năm 1980 cho phép người dân rời khỏi đất nước nếu muốn. Mặc dù lượng người di cư đến Miami sau đó cao, Card không tìm thấy tác động tiêu cực nào về tiền lương hoặc lao động đối với những người dân Miami có trình độ học vấn thấp.
Ủy ban trao giải lưu ý rằng các thí nghiệm tự nhiên rất khó giải thích, nhưng Angrist và Imbens vào giữa những năm 1990 đã giải quyết các vấn đề phương pháp luận để cho thấy rằng các kết luận chính xác về nguyên nhân và kết quả có thể được rút ra từ chúng.
"Tôi thực sự choáng váng khi nhận được cuộc điện thoại, sau đó tôi vô cùng xúc động khi biết tin này," Imbens nói trong cuộc gọi với các phóng viên ở Stockholm. Ông cũng cho biết rất xúc động khi được chia sẻ giải thưởng với hai người bạn tốt của mình. Ông Angrist thậm chí còn là phù rể trong đám cưới của Imbens.
Năm ngoái, giải Nobel Kinh tế học thuộc về hai nhà khoa học Mỹ là Paul R.Milgrom và Robert B.Wilson. Cả hai đã có đóng góp vào việc cải thiện lý thuyết đấu giá và sáng tạo ra các hình thức đấu giá mới.
Kinh tế thường là giải thưởng cuối cùng được trao mỗi mùa Nobel hằng năm, sau Nobel Y học, Vật lý, Hóa học, Văn học và Hòa bình. Nobel cho lĩnh vực kinh tế không thuộc cơ cấu giải thưởng ban đầu trong di chúc của nhà khoa học Thụy Điển - Alfred Nobel. Giải này được bổ sung năm 1968, nhân kỷ niệm 300 năm thành lập Ngân hàng Trung ương Thụy Điển - Sveriges Riksbank, cũng là đơn vị đóng góp quỹ cho giải thưởng này.
Dù vậy, quy trình đề cử, chọn lọc và trao giải Nobel Kinh tế vẫn tương tự các lĩnh vực khác. Nhà khoa học giành Nobel Kinh tế năm nay sẽ được trao 10 triệu kronor Thụy Điển (khoảng 1,14 triệu USD). Đến nay, giải Nobel Kinh tế học đã được trao 52 lần cho 87 nhà khoa học.
Danh sách Nobel Kinh tế các năm 2009 - 2021
Năm | Người đoạt giải | Công trình | Quốc gia |
2021 | David Card, Joshua Angrist, Guido Imbens. |
Nghiên cứu thực nghiệm kinh tế lao động Phương pháp luận trong việc phân tích các mối quan hệ nhân quả về kinh tế |
Canada, Mỹ |
2020 | Paul R.Milgrom, Robert B.Wilson | Cải thiện lý thuyết đấu giá và sáng tạo ra các hình thức đấu giá mới | Mỹ |
2019 |
Abhijit Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer |
Cách tiếp cận thực nghiệm trong việc giảm nghèo toàn cầu | Mỹ và Pháp |
2018 |
William Nordhaus Paul Romer |
Kinh tế học khí hậu Thuyết tăng trưởng nội sinh |
Mỹ |
2017 | Richard H.Thaler | Kinh tế học hành vi | Mỹ |
2016 | Oliver Hart và Bengt Holmström | Lý thuyết hợp đồng | Mỹ và Phần Lan |
2015 | Angus Deaton | Mối quan hệ giữa tiêu dùng, nghèo đói và phúc lợi | Mỹ |
2014 | Jean Tirole | Cách thức quản lý các tập đoàn, công ty lớn trên thị trường. | Pháp |
2013 | Eugene F. Fama, Lars Peter Hansen, Robert J. Shiller | Phân tích giá tài sản | Mỹ |
2012 | Alvivin E.Roth và Lloyd S.Shapley | Lý thuyết phân phối ổn định và thực tiễn về tạo lập thị trường | Mỹ |
2011 | Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims | Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế vĩ mô và tác động của chúng lên nền kinh tế | Mỹ |
2010 | Peter A. Diamond, Dale T. Mortensen và Christopher A. Pissarides | Công thức mới cho sự tương tác trên thị trường, giữa bên có hàng hóa, dịch vụ, việc làm... với bên đi tìm kiếm | Anh, Mỹ |
2009 | Elinor Ostrom và Oliver E. Williamson | Phương thức điều hành nền kinh tế | Mỹ |
Phiên An