Ngày tôi mới tượng hình trong bụng mẹ, thú thật lúc ấy chẳng ai mong tôi có mặt trên đời. Có lẽ bởi cha tôi là công chức và trước tôi đã có chị hai và anh ba. Còn tôi giống như một đứa trẻ dư thừa. Tôi khi ấy lẽ ra đã không kịp mở mắt chào đời nếu không có bàn tay ngăn cản của bà ngoại. Bà đã khuyên nhủ lẫn đe dọa rằng nếu mẹ bỏ tôi, bà sẽ từ mặt cả nhà. Tô nghĩ có lẽ vì sợ bà cũng như thương xót giọt máu của mình, nên tôi mới được sinh ra một cách bình yên.
Ngày đầy tháng, bà bế tôi trên tay, nâng niu như báu vật cuộc đời. Tôi nghe mọi người kể lại, bà đã xúc động khi thấy tôi nhoẻn miệng cười. Bà hứa nếu còn sống ngày nào sẽ luôn bảo vệ và dìu dắt tôi nên người.
Thực ra, tôi vẫn chưa kể cho bạn nghe về bà tôi. Bà là một cô giáo làng chỉn chu và cực kỳ nghiêm khắc. Với bà, để nuôi dạy mười đứa con không phải là chuyện dễ dàng. Chiếc roi mây được để trên vách nhà luôn làm lũ trẻ sợ. Bà ít nói, nghiêm nghị nhưng rất tình cảm. Cuộc sống trong thời chiến khó khăn bộn bề, bà theo ông về chọn vùng Đồng Tháp Mười làm nơi sinh sống, đất đai hoang vu nhưng màu mỡ. Bàn tay nhỏ cầm phấn ngày nào giờ cầm cuốc, xẻng cùng chồng con khai khẩn đất hoang. Bà và ông đã biến một vùng đất trơ trọi thành cánh đồng lúa trĩu hạt, cùng vườn cây trái sum xuê.
Bà dạy lũ trẻ học hành, trai gái đều được đối xử công bằng như nhau. Tất cả đều được biết chữ và tạo điều kiện để sinh nhai. Các cậu, dì lớn lên tản mác muôn nơi, có người sang tận nước Mỹ xa xôi, có người ra Bắc, có người nằm xuống vì mưu sinh... Khi nghe con mất, hơn ai hết bà đau lòng đến chừng nào, nhưng vẫn cố gắng mạnh mẽ trở thành chỗ dựa cho cả nhà. Có những đêm, khi cả nhà say ngủ, trước bàn thờ con, bà đưa tay quệt nước mắt nhiều lần. Lúc đó lòng người mẹ mới buốt nhói và cho phép mình yếu đuối...
Mấy mươi năm ông quên quên nhớ nhớ, chỉ có bà vẫn mãi ở đó bên cạnh ông chăm sóc tảo tần. Các con ở xa, nhà cũng ít người, bà chăm ông từng chút một. Bà yêu ông bằng một tình thương đầy thử thách. Ông có lúc nhớ ra bà là ai, nhưng lúc khác lại giãy giụa ngơ ngác vì quên mất người vợ của mình.
Người ta bảo "đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu", quả thực rất khó đề tìm ra những người phụ nữ như bà tôi. Bà đã hy sinh sâu sắc và yêu thương chồng con vô bờ bến. Bà tôi thích đọc sách báo, hay đọc cho ông nghe lúc rảnh rỗi. Với vốn kiến thức khá rộng, bà có thể trò chuyện cởi mở với tôi về mọi thứ.
Chúng tôi thỉnh thoảng có những bất đồng nho nhỏ về cách nhìn, về quan điểm sống khác thế hệ, nhưng bà không bao giờ áp đặt rằng tôi là con cháu không được cãi... Bà bảo thực ra mỗi thời mỗi khác, bà không theo kịp thời đại của tôi. Khi lắng nghe tôi nói, nếu thấy đúng, bà sẽ gật gù, nếu sai cũng chỉ phân tích cho tôi hiểu rồi cười xòa vui vẻ...
Tôi rất thích nói chuyện với bà vì có thể đặt những câu hỏi thẳng thắn mà không sợ bị mắng. Tôi học được từ bà cách phân tích, phản biện trong cuộc hội thoại và dần tôi biết cách lắng nghe nhiều hơn. Tôi biết hạ mình xuống để thấu hiểu sâu sắc những vấn đề, mà trước đó trong đầu mang sẵn ác cảm. Khi tôi rời nhà đi học trên Sài Gòn, bà bảo tôi hãy cẩn thận vì nơi phố thị rắc rối và khó khăn sẽ gặp phải.
Sau cùng, bà vẫn bảo tôi "dù thế nào cũng đừng đánh mất niềm tin ở cuộc đời, bất kỳ nơi đâu cũng tồn tại cả người xấu và người tốt". Giờ đây bà đã già hơn xưa, tay chân cũng chậm chạp và sức khỏe yếu đi nhiều, nhưng những gì bà đã làm và sống như ngọn đuốc luôn sáng rực trong tim tôi. Bà mãi là người phụ nữ tuyệt vời mà tôi hằng trân trọng.
Huỳnh Thị Ngọc Hà