Vậy mà mãi đến tận nửa đêm, tôi mới tạm xong mọi việc để ngồi bên em. Sau dông bão, em càng bé nhỏ, đôi mắt đã to lại dường như mênh mông hơn, ngổn ngang, xao động chất chứa đủ điều. Con chim non ốm yếu sẽ còn chịu được bao mùa dông bão nữa? Thương em rời rã cả người, định kéo em vào lòng, ôm chặt lấy em, dùng tất cả sức lực còn lại sau một ngày đã tiêu huỷ đi gần hết để hà hơi, tiếp nhiệt cho em, có biết bao điều để nói nhưng em khẽ đẩy tôi ra, giọng nói toàn nước mắt:
- Chị Hai… bỏ đi rồi! Có lá thư chị để lại cho em…
Tôi vội cầm lấy tờ giấy học trò nhăn nhúm dính đầy đất cát, có những hàng chữ thô kệch ngoằn lên ngoằn xuống bấm đèn pin đọc:
“… Sương yêu của chị!
Chị đi đây! Anh ấy chết rồi, chị chả còn lý do gì để ở lại rừng nữa. Chỉ tiếc chị không kịp có một đứa con với ảnh. Ra đi lúc này, chị tự biết có trọng tội với mọi người, với em, với các chú các bác Cách Mạng. Nhưng dù còn ở lại, chị cũng chỉ là con vô tích sự thôi. Ba hiểu cho chị, chị đâu có ngán đánh đấm, ngán hy sinh, cực khổ cỡ nào cũng chịu được, cái chết đối với chị chả có nghĩa gì, vậy mà chị phải đi để ngày ngày khỏi phải nhìn thấy ảnh có mặt ở ráo trọi những gốc cây, bụi rậm, bến sông, đường mòn… Chị khổ lắm! Giả dụ chị có thể chết thay cho ảnh, chết theo ảnh được… Chị là tên phản bội, tên chiêu hồi, con đảo ngũ khốn nạn!… Em hãy chửi chị, nguyền rủa chị đi nhưng hãy thương chị với Ba nhé! Chán cuộc đời đen bạc, chị vô rừng. Tính ở rừng mãn kiếp, ở rừng tới chừng trúng đạn ngã xuống là rồi đời ai dè lại gặp ảnh! Bắt đầu chị chỉ chấp nhận ảnh để giúp ảnh ra khỏi căn bệnh ghê người. Miết rồi, con người thô bạo, bị mọi người sợ hãi xa lánh đó đã làm chị sống lại mọi ước mơ, hy vọng, làm chị dần dần tìm lại được cái tâm tính đàn bà tưởng đã vĩnh viễn chôn chặt đi với tay đại uý đó và cùng với những trận đánh dữ tợn sau này. Ngược lại, chị cũng tìm thấy ở ảnh một khí chất đàn ông toàn vẹn, hơi méo mó nhưng vẫn toàn vẹn. Ảnh cần có chị và chị cũng cần có ảnh. Vậy thôi. Bây giờ ảnh không còn nữa, chị phải lội trở lại với cõi đời đen bạc vậy. Ba ơi! Đừng cười chị, cho rằng vì chuyện đực cái mà nay vào mai ra. Hổng phải đâu. Trăm điều xấu xa hơn thế nhiều mà chị không biết cách diễn đạt thế nào cho trúng. Chị là đàn bà. Đã là đàn bà thì còn lắm nỗi đa đoan vượt ra ngoài mọi chuyện đâm chém chết chóc kia em ơi!
Cho chị Hai quỳ xuống tạ tội cùng em, cùng mọi người, cùng anh Hùng. Đừng để mất Hùng nghe em! Đó là người đàn ông ngon lành nhất chị chưa hề gặp kể cả bên này lẫn bên kia. Ra ngoài đó, nếu sống nổi, chị sẽ đêm đêm cầu nguyện cho hạnh phúc của em, cho sự anh toàn của mọi người và nếu có thể giúp được gì cho mấy em, chị sẽ không tiếc gì hết.
Chỉ mình em biết chị đi. Đối với thiên hạ, chị là kẻ mất tích, bị bắt, bị giết trong trận càn mà chị đã vĩnh viễn mất ảnh này…”.
- Tám Tính chết hồi nào vậy?
Tôi hỏi sau một phút chìm lắng ê ẩm. Sương nhìn lên, cái nhìn côi cút và đầm đìa nước mắt:
- Chết ngay từ loạt đạn đầu khi dẫn đội cảm tử đi trợ lực cho mấy anh. Từ bên kia sông, người ta báo qua đây bằng điện đài…
- Biết tin, Hai Hợi bỏ cuộc luôn à?
- Không! Chị chỉ chui xuống hầm khóc âm thầm một lúc rồi dẫn mọi người ra mặt lộ chặn đánh bọn bảo an sắp tràn vào. Trời! Chưa khi nào em thấy chỉ đánh giặc kỳ cục như vậy. Đánh để chết, đánh khơi khơi, đánh không cần biết ai vào ai, xài hết loại súng này tới loại súng khác, vừa bắn vừa gừ gừ cái gì trong cổ nghe sợ lắm!… Cả đại đội ác ôn gần trăm đứa rạp gần hết mà chỉ vẫn bắn, bắn đến kiệt sức, vấp mặt xuống sình, mọi người phải vực lên mới thôi. Và đến tối thì chị…
Sương khóc. Khóc nức nở như một đứa trẻ bị bỏ rơi giữa chợ. Khẽ khàng ôm em vào lòng, lau nước mắt cho em, tôi chợt thấy lòng buồn man mác…
- Thế là mất đi hai tay súng thiện chiến, hai con người trung hậu. Sương ơi!… Rồi mai đây cuộc chiến tranh còn ngặt nghèo hơn nhiều nữa, em có bỏ tôi mà đi không?
- Không!… Em ở lại với anh. Suốt đời… Đến chết!
Tuần lù lù đi tới, mặt mày đã có thần sắc hơn.
- Cái gì đó anh Hai?… Chị Ba?
- Hai Hợi bị chúng bắt mang đi rồi.
Tôi trả lời.
Ông Hùng bừng tỉnh dậy. Trời đã tắt nắng từ lâu. Bên kia sông, khu chốt Mỹ đang chuyển màu xám dịu, hiu hắt buồn, như thể câu chuyện diễn ra trong óc ông vừa rồi là không có thật, là chuyện cổ tích xa xưa mà không mấy ai còn nhớ.
Phía sau ông, những đôi trai giá vẫn tiếp chui ra và chui và cam-pinh.
Bất tận không mệt mỏi, không biểu cảm thái độ gì. Trong những đôi đó, đôi nào là tình nhân? Đôi nào là trốn chúa lộn chồng? Đôi nào là hợp đồng đĩ điếm? Và trước mặt ông, muôn vàn những con sóng ký ức đớn đau, nhọc nhằn, cả êm dịu không ngừng xô đập vào người.
Tối trời nên không một ai hay biết ông già vận áo quần nhàu nát, có bộ dạng thần kinh đó đang lặng lẽ đứng khóc một mình…
Chương 11
Tuấn vẫn chưa về. Toà nhà hai tầng có vườn cây bao quanh mang dáng dấp một điền trang u tịch vẫn im lìm sau cánh cổng sắt đóng kín. Liệu đêm nay nó có về không? Hay mai? Hoặc mốt? Mai hay mốt tôi có thể nán chờ được nhưng lâu hơn nữa thì sao?… Một sự mệt mỏi trộn lẫn hoài nghi xâm chiếm lấy tôi, đến tận từng kẽ răng. Chờ ư? Cái đó dễ rồi. Thất nghiệp, về hưu, đang đi tìm kế sinh nhai, thời gian là của mình, thời gian dài đến thê lương, có gì mà vội. Ấy nhưng chờ chỉ để hàn huyên, để thi nhau lục lại mọi kỷ niệm nọ kia (mà chắc gì nó đã thích lục?) để nhậu, để vỗ đùi vỗ về, cười hả hả, cười méo mó, khen nhau, chê nhau, đánh trận này, đập trận kia, thằng này sống, thằng kia chết… mệt đầu lắm mà chả được cái tích sự gì. Có khác gì phải đánh nhau khổ sở trở lại trong cùng cuộc chiến tranh ấy. Tôi muốn gặp nó chỉ để hỏi tung tích về Sương. Bởi lẽ cái đêm cướp xác chôn xác ấy, nó cũng có mặt. Chỉ có nó mới xác định giúp tôi thật giả thôi. Nên vừa muốn gặp vừa muốn không. Tôi lo sợ khi nghe nó bảo cô ấy đã chết, càng lo sợ khi nó nói cô ấy còn sống. Đối với tôi hai cái đều quá đỗi dở dang. Hoặc giả, giống như thằng Quân, thằng Ba Thành, nó lại cười phì phì vào mũi tôi mà kêu tôi là rồ dại, là mắc bệnh hoang tưởng, thì lại nhức cái đầu hơn.
Số tiền ông già đại tá cho tôi vẫn còn, gần như còn nguyên vẹn. Về đây là coi như trở về nhà, ghé bất cứ chỗ nào, nơi nào, cũng có thể có cơm nuôi được… mười năm. Nhưng tôi ngại lắm. Tôi không muốn bạn bè cũ, người quen xưa nhìn tôi, một kẻ đã từng được mệnh danh sáng giá là Người hùng Việt Cộng lại thê thảm nhàu nát thế này. Chính vì thế mà, trừ một vài anh em thật chí cốt, tôi chẳng muốn quét rộng luồng ra đa thăm hỏi và dò tìm ra làm gì. Gặp ông tỉnh đội trưởng nay là bí thư tỉnh uỷ ư? Hay gặp ông bí thư nay vì một nguyên cớ tế nhị nào đó lại đang làm một phó thường dân? Hay gặp bà trưởng ban tổ chức tỉnh uỷ vốn trước kia là cấp trên trực tiếp của cánh Hai Hợi, Ba Sương? Hoặc… Mà thôi, điểm làm gì. Cuộc chiến đấu giành đất trong những cánh rừng năm xưa giờ đây đang được chuyển hoá khốc liệt thành cuộc chiến đấu giành ghế ngoài đời, các vị ấy còn một góc tĩnh lặng nào đâu để nhớ về dĩ vãng, nhớ về bạn bè một thuở, những người sống và những người chết! Vả lại, đây mới là nguyên cớ chính, tôi thực sự không muốn giáp mặt họ một khi ngày trước, giữa tôi với họ bao giờ cũng có một khoảng cách e dè không dễ lấp đầy. Suốt chục năm lăn lóc, tôi chỉ là một đối tượng cần nhưng kiềng của họ. Cần ở khả năng xả thân giữ đất nhưng lại rất kiềng ở tính nguyên tắc và thái độ không khoan nhượng với sự xúc phạm đến những đạo lý làm người.
Chiến tranh càng cần phải gìn giữ tính người chứ chiến tranh đâu có phải miếng đất bẩn thỉu cho thú tính tràn vào. Cho nên… Chao ôi! Sau mười lăm năm, người lính gần như còn sống sót duy nhất lặn lội trở lại địa bàn xưa mà sao lắm cho nên, lắm xa lạ đến thế? Những mái nhà ấm cúng đang toả ra làn khói bữa cơm chiều kia, những cửa hàng sang trọng, những đường phố trải nhựa rộng dài mịn như lụa kia, những cô cậu học trò tươi xinh mơn mởn, những con người ngày trước chỉ lo trốn tránh, ngày trước có tội, có nợ máu với bà con và cả những vị ngày nào còn cùng chui hầm ở bụi, còn bám dính đằng sau bộ độ đột ấp kiếm từng hạt gạo bây giờ quyền uy chất ngất, tiền vàng ngập hòm ngập tủ kia óc hay rằng cả thời trai trẻ của tôi, của lũ xa quê chúng tôi thay nhau gục xuống với tất cả nỗi niềm lãng mạn chân thành để hôm nay trở lại trở thành xa lạ đến thê thảm thế này không?
Còn tiếp