Lớn hơn một chút, gặp nhau trong rạp chiếu phim, tôi tay xách nách mang bỏng ngô và nước ngọt, có người bạn từ xa vẫn hỏi "Ủa đi xem phim hả?", rồi tới gần hỏi kỹ thêm: xem phim gì, đi với ai? Về quê ăn Tết, bạn bè cũ của ba tôi mỗi dịp tay bắt mặt mừng còn chào nhau bằng câu hỏi khác: Ăn cơm chưa?.
Những câu chào xã giao như vậy (mà chính xác là câu hỏi) từng để lại nỗi băn khoăn lớn trong tôi, cho đến khi tôi bắt đầu hình dung ra thứ "cao hơn mâm cỗ" của người Việt vốn dĩ nằm ngay trong những câu hỏi tưởng chừng vô thưởng vô phạt ấy.
Khi học về lời chào, tôi chỉ biết chào hỏi bằng cú pháp có từ "chào" trong câu, không biết hỏi cũng là một cách để chào, nhất là trong những mối quan hệ thân mật. Khi đó, người ta hỏi chỉ để chờ đối phương đáp lại một câu, từ đấy mà câu chuyện gặp mặt cứ thế tiếp diễn. Câu hỏi "Đi đâu đấy?" hay "Đi chợ à?" tưởng chẳng cần trả lời, khi người ta đang xách trên tay chiếc làn mây với ti tỉ món đồ tươi sống, hóa ra giống như cái cớ níu hai người lại với nhau, để dừng bước mà dành sự quan tâm cho đối phương, để chắc chắn rằng cuộc sống của người nọ vẫn bình yên. Sau khi rời khu chợ hoặc rạp chiếu phim, người ta có thể hẹn nhau ở một buổi gặp mặt khác, với thời gian dư dả và không gian tiện nghi hơn để tâm tình; hoặc có thể hai người lại chia hai ngả, quay về cuộc sống riêng cùng nhiều mối bận tâm khác.
Trong các câu (chào) hỏi, tôi ấn tượng nhất là "Ăn cơm chưa?". Từ khía cạnh văn hóa, người Việt mình lớn lên trong tiếng ru hời thơm mùi lúa mới, trên cái nền kiên cố của nền văn minh lúa nước lâu đời. Những buổi đồng áng "chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa" cũng chính là nơi sản sinh ra lời ăn tiếng nói của dân tộc, do đó mà cũng không khó hiểu khi hình ảnh hạt gạo, cánh đồng lúa, chuyện ăn cơm, ăn cỗ hiển hiện ở nhiều cách nói tượng hình của dân tộc ta. Ăn là hoạt động mang tính biểu tượng trong văn hóa Việt. Ăn không chỉ là hiện thân của lễ nghi cộng đồng như: ăn cưới, ăn cỗ... mà còn là kết tinh của luân thường đạo lý. Qua bữa ăn mà ông bà dạy con cháu "ăn trông nồi, ngồi trông hướng", từ chuyện ăn mà khái quát nên cái tháo vát, sự khéo léo ở đời "khéo ăn thì no, khéo co thì ấm"...
Vì ăn không còn đơn thuần là một nhu cầu thiết yếu để sinh tồn mà hàm chứa nhiều sắc thái và lớp nghĩa, nên khi người ta hỏi nhau "Ăn cơm chưa?" thay cho lời chào, thì "miếng ăn là đầu câu chuyện" lại nảy sinh một hàm ý khác.
Trước hết, phong cách chào hỏi nào, dù là câu chào mang tính "sách vở" (có chữ "chào" trong câu) hay câu hỏi, đều mang thông điệp bày tỏ tình cảm, sự tôn trọng dành cho đối phương. Khi chào ai đó bằng việc hỏi về chuyện ăn uống, có lẽ người hỏi không có ý định gì khác ngoài thể hiện sự quan tâm. Để lúc đối phương thành thực trả lời về việc mình đã dùng bữa hồi mấy giờ, hay vì sao vẫn chưa có hạt cơm nào trong bụng, người hỏi còn biết thêm về lịch trình, mối bận tâm và mấy khía cạnh khác trong đời sống của họ, để từ đó mà câu chuyện xuôi dòng. Ông bà ta vốn tin rằng: "Có thực mới vực được đạo", nên để cuộc trò chuyện thêm đôi phần ý vị, người bồi chuyện cần ấm bụng trước đã. Đó cũng là lý do mà bàn ăn của người Việt ngoài thức ăn, còn đầy ắp câu chuyện: ăn no để buổi chuyện trò thêm lôi cuốn, mà bữa ăn cũng đưa cơm hơn bởi món ăn tinh thần vui tai, rôm rả.
Khi các cô chú hỏi ba tôi: "Ăn cơm chưa?", đó cũng như là lời mời nán lại dùng bữa. Bởi dù ba tôi có trả lời thế nào, họ cũng sẽ niềm nở giữ cả nhà tôi ngồi lại bên mâm cỗ ngày Tết: bậc cha chú, trong men say của rượu xuân giữa tiết trời se lạnh của khí hậu phương Bắc, ngồi tâm tình sau một (hoặc vài) năm không gặp mặt; chiếu phụ nữ và trẻ em bận rộn lên mâm, bày biện, tíu tít nói cười... Có điều gì đó thật ấm áp, kỳ diệu, vì toàn bộ khung cảnh ấy chỉ bắt nguồn từ câu hỏi duy nhất: "Ăn cơm chưa?".
"Lời chào cao hơn mâm cỗ" - mâm cao cỗ đầy tuy được xem là một biểu hiện của lòng hiếu khách, vẫn thấp hơn lời chào vài bậc. Thứ mà người Việt đề cao không phải là sự đề huề vật chất, mà là sự đong đầy tình cảm.
Khi ai đó không còn được nhận lời chào nữa, anh ta có thể ngầm hiểu rằng mình đã bị gạt ra khỏi cuộc sống của người kia, sự tồn tại của mình không còn ý nghĩa đối với họ, hơn hết, người kia không còn dành sự tôn trọng cho mình nữa.
Chúng ta chào ai đó để khẳng định sự hiện diện của đối phương, vì tôn trọng họ, và cũng là cách để tôn trọng phẩm giá của chính mình. Lời chào có thể mang nhiều gương mặt khác nhau để nói lên mức độ thân thiết của mối quan hệ: mẫu mực, khách sáo khi cả hai có khoảng cách nhất định; thân tình, cởi mở khi người ta trở nên gắn bó hơn qua thời gian; nhưng ý nghĩa của nó nhìn chung gói gọn trong hai chữ "tôn trọng".
Tôi nhận ra: mặt chữ giản dị, thân thương của câu chào chở theo cả một tư tưởng mang đậm cốt cách Việt, ở đó người ta trọng tình nghĩa và tư cách của con người trong cộng đồng hơn cả.
Giờ đây, tôi không còn ngơ ngác trước những câu hỏi bất chợt thay cho câu chào. Thay vào đó, tôi nghĩ mình có thể nhiệt tình và thực tình đáp lại, như một cách đối đãi ân tình cho sự quan tâm, tôn trọng mà họ dành trao. Và khi có dịp gặp lại ai đó, tôi cũng sẽ không ngần ngại hỏi chuyện ăn uống, để mượn cớ cùng họ tâm tình. Một kỷ niệm nào sẽ được viết nên, một mối quan hệ nào sẽ thêm gắn kết, một tâm hồn nào thấm nhuần thêm nếp nghĩ Việt, khi ngỏ lời chào: "Bạn đã ăn cơm chưa?".
Đinh Võ Kiều Oanh