Theo sách Từ điển Văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ 19 (Nhà xuất bản Văn học, 2018), Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822 tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Cha ông là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế), là thư lại Ty Văn hàn của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người Gia Định.
Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông bỏ trốn ra Huế rồi bị cách chức. Năm 1833, cha ông trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.
Năm 1843 ông đỗ tú tài ở trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy, có một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông. Năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849, nhưng chưa kịp thi thì được tin mẹ mất. Trên đường trở về chịu tang mẹ, vì thời tiết thất thường, vất vả và khóc thương nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Trong thời gian nghỉ lại Quảng Nam chữa bệnh, tuy bệnh không hết, ông đã được vị danh y truyền dạy nghề thuốc.
Đui mù, mẹ mất, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút, ông đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, sau đó mở trường dạy học và làm thuốc. Năm 1854, một người học trò vì cảm phục và mến thương ông đã xin gia đình gả cô em gái thứ năm cho thầy.
Khi Pháp chiếm thành Gia Định năm 1859, ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ với những sĩ phu yêu nước, từ chối trước mọi cám dỗ của đối phương.
Tháng 7/1888, ông mất tại Ba Tri, Bến Tre. Người dân kể lại ngày đưa đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông.