Lou Macari, thời thi đấu ở MU: 1973-1984
Điều đáng nói đầu tiên về cựu cầu thủ người Scotland là ông đã chơi hơn 400 trăm trận cho Quỷ đỏ. Macari đã thể hiện thành công cả hai kỹ năng dẫn dắt trận đấu và dứt điểm ghi bàn, bằng chứng là 97 lần lập công vào lưới đối phương. Macari cũng là một trong những cầu thủ cùng MU xuống hạng vào năm 1974 nhưng trở lại ngay trong năm tiếp theo.
Lou Macari, thời thi đấu ở MU: 1973-1984
Điều đáng nói đầu tiên về cựu cầu thủ người Scotland là ông đã chơi hơn 400 trăm trận cho Quỷ đỏ. Macari đã thể hiện thành công cả hai kỹ năng dẫn dắt trận đấu và dứt điểm ghi bàn, bằng chứng là 97 lần lập công vào lưới đối phương. Macari cũng là một trong những cầu thủ cùng MU xuống hạng vào năm 1974 nhưng trở lại ngay trong năm tiếp theo.
Paul Ince, 1989-1995
Cầu thủ da màu đầu tiên đeo băng thủ quân đội tuyển Anh từng gặp bất đồng với HLV Alex Ferguson, nhưng không ai có thể phủ nhận những đóng góp của anh cho MU. Với cái tài chọn đúng thời điểm xoạc bóng, chuyền, dứt điểm, Ince đã đóng vai trò trụ cột suốt nhiều năm tại sân Old Trafford. Trước khi gia nhập Inter Milan vào năm 1995, Ince kịp giành với Quỷ đỏ 2 chức vô địch Ngoại hạng Anh, 2 FA Cup, 1 League Cup, 1 Cup C2 và 1 Siêu Cup châu Âu.
Paul Ince, 1989-1995
Cầu thủ da màu đầu tiên đeo băng thủ quân đội tuyển Anh từng gặp bất đồng với HLV Alex Ferguson, nhưng không ai có thể phủ nhận những đóng góp của anh cho MU. Với cái tài chọn đúng thời điểm xoạc bóng, chuyền, dứt điểm, Ince đã đóng vai trò trụ cột suốt nhiều năm tại sân Old Trafford. Trước khi gia nhập Inter Milan vào năm 1995, Ince kịp giành với Quỷ đỏ 2 chức vô địch Ngoại hạng Anh, 2 FA Cup, 1 League Cup, 1 Cup C2 và 1 Siêu Cup châu Âu.
Paddy Crerand, 1963-1971
Crerand là mẫu cầu thủ tương tự Paul Ince: giỏi tranh cướp bóng và điều tiết nhịp độ trận đấu. Ông được nhớ mãi với vai trò điểm tựa giúp Bobby Charlton, Denis Law và George Best tỏa sáng đem lại Cup C1 năm 1968 cho MU.
Paddy Crerand, 1963-1971
Crerand là mẫu cầu thủ tương tự Paul Ince: giỏi tranh cướp bóng và điều tiết nhịp độ trận đấu. Ông được nhớ mãi với vai trò điểm tựa giúp Bobby Charlton, Denis Law và George Best tỏa sáng đem lại Cup C1 năm 1968 cho MU.
Nobby Stiles, 1960-1971
Stiles chính là đồng đội ăn ý của Crerand trong thập niên 1960. Chỉ cao 1,68 m nhưng Stiles luôn nổi bật với lối chơi không ngại va chạm. Thi đấu ở vị trí tiền vệ lùi sâu nhất, cựu cầu thủ người Anh này đã góp công quan trọng vào danh hiệu vô địch C1 năm 1968 của MU và vô địch World Cup 1966 của đội tuyển Anh.
Nobby Stiles, 1960-1971
Stiles chính là đồng đội ăn ý của Crerand trong thập niên 1960. Chỉ cao 1,68 m nhưng Stiles luôn nổi bật với lối chơi không ngại va chạm. Thi đấu ở vị trí tiền vệ lùi sâu nhất, cựu cầu thủ người Anh này đã góp công quan trọng vào danh hiệu vô địch C1 năm 1968 của MU và vô địch World Cup 1966 của đội tuyển Anh.
Paul Scholes, 1993 đến nay
Có Scholes trên sân, hàng tiền vệ Quỷ đỏ thường thi đấu với tính tổ chức rất cao. Một ưu điểm nữa của cầu thủ người Anh này là khả năng sút xa có thể làm thay đổi cục diện trận đấu. Nhiều CĐV Quỷ đỏ vẫn còn nhớ chính Scholes ghi bàn duy nhất loại Barca ở bán kết Champions League 2008 bằng một cú sút từ cự ly 25 m. Không phải ngẫu nhiên giới chuyên môn thường so sánh Scholes với Zidane và Figo ở Real Madrid trước đây.
Paul Scholes, 1993 đến nay
Có Scholes trên sân, hàng tiền vệ Quỷ đỏ thường thi đấu với tính tổ chức rất cao. Một ưu điểm nữa của cầu thủ người Anh này là khả năng sút xa có thể làm thay đổi cục diện trận đấu. Nhiều CĐV Quỷ đỏ vẫn còn nhớ chính Scholes ghi bàn duy nhất loại Barca ở bán kết Champions League 2008 bằng một cú sút từ cự ly 25 m. Không phải ngẫu nhiên giới chuyên môn thường so sánh Scholes với Zidane và Figo ở Real Madrid trước đây.
Bryan Robson, 1981-1994
Một thủ lĩnh, một chiến binh cừ khôi, đó là nhận xét tối thiểu khi nói về cựu đội trưởng của MU. Bryan Robson vừa có khả năng dứt điểm tốt, lại vừa biết cách thi đấu lăn xả hiệu quả ở tuyến giữa. Số danh hiệu mà Robson giành được với MU có thể không nhiều (2 Ngoại hạng Anh, 3 FA Cup, 1 League Cup, 1 Cup C2, 1 Siêu Cup châu Âu) nhưng ông là hình mẫu để nhiều ngôi sao thế hệ kế cận như Roy Keane noi theo.
Bryan Robson, 1981-1994
Một thủ lĩnh, một chiến binh cừ khôi, đó là nhận xét tối thiểu khi nói về cựu đội trưởng của MU. Bryan Robson vừa có khả năng dứt điểm tốt, lại vừa biết cách thi đấu lăn xả hiệu quả ở tuyến giữa. Số danh hiệu mà Robson giành được với MU có thể không nhiều (2 Ngoại hạng Anh, 3 FA Cup, 1 League Cup, 1 Cup C2, 1 Siêu Cup châu Âu) nhưng ông là hình mẫu để nhiều ngôi sao thế hệ kế cận như Roy Keane noi theo.
Roy Keane, 1993-2005
Keane chính là bản sao hoàn hảo của Bryan Robson mà HLV Alex Ferguson từng tâm đắc. Sự có mặt của Keane thường bổ sung chất thép cho nhóm cầu thủ tấn công tài hoa gồm David Beckham, Ryan Giggs, Paul Scholes, Andy Cole và Dwight Yorke. 7 chức vô địch Ngoại hạng Anh cùng cú ăn ba năm 1999 là thành tích nhắc nhở MU và giới hâm mộ luôn phải tri ân cựu đội trưởng người Ireland.
Roy Keane, 1993-2005
Keane chính là bản sao hoàn hảo của Bryan Robson mà HLV Alex Ferguson từng tâm đắc. Sự có mặt của Keane thường bổ sung chất thép cho nhóm cầu thủ tấn công tài hoa gồm David Beckham, Ryan Giggs, Paul Scholes, Andy Cole và Dwight Yorke. 7 chức vô địch Ngoại hạng Anh cùng cú ăn ba năm 1999 là thành tích nhắc nhở MU và giới hâm mộ luôn phải tri ân cựu đội trưởng người Ireland.
Bobby Charlton, 1956-1973
Charlton là cầu thủ sinh ra để đem lại thành công cho MU và nước Anh. Thoát chết sau thảm họa rơi máy bay ở Munich năm 1958, siêu sao có cái đầu hói trở thành nhân tố chủ chốt giúp Quỷ đỏ hồi sinh trong thập niên 1960. Khả năng dẫn dắt lối chơi tuyệt vời của ông thường giúp đội nhà thắng thế ở tuyến giữa. Charlton cũng có biệt tài sút xa mà nhiều đồng nghiệp phải ghen tỵ. Nếu lấy thành bại luận anh hùng, Charlton xứng đáng là tiền vệ trung tâm thành công nhất của MU với ba danh hiệu vô địch C1 năm 1968, vô địch World Cup 1966 và Quả bóng vàng châu Âu 1966.
Bobby Charlton, 1956-1973
Charlton là cầu thủ sinh ra để đem lại thành công cho MU và nước Anh. Thoát chết sau thảm họa rơi máy bay ở Munich năm 1958, siêu sao có cái đầu hói trở thành nhân tố chủ chốt giúp Quỷ đỏ hồi sinh trong thập niên 1960. Khả năng dẫn dắt lối chơi tuyệt vời của ông thường giúp đội nhà thắng thế ở tuyến giữa. Charlton cũng có biệt tài sút xa mà nhiều đồng nghiệp phải ghen tỵ. Nếu lấy thành bại luận anh hùng, Charlton xứng đáng là tiền vệ trung tâm thành công nhất của MU với ba danh hiệu vô địch C1 năm 1968, vô địch World Cup 1966 và Quả bóng vàng châu Âu 1966.