Hôm 12/8, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa tri thức may, mặc áo dài Huế vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Sau đó, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế sẽ hoàn thiện hồ sơ trình lên UNESCO, đề xuất công nhận nét đẹp này thành văn hóa phi vật thể nhân loại. Ảnh: Võ Thạnh Ông Phan Thanh Hải - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh - cho biết qua hơn 300 năm, trang phục tạo nên hình ảnh, nét đặc sắc của cố đô. Ngày nay, áo dài Huế vẫn phổ biến, thường được mọi người diện trong các hoạt động như cưới hỏi, cúng tế, du xuân đầu năm.Nhã nhạc cung đình Huế là kiệt tác đầu tiên tại Việt Nam được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại vào năm 2003. Ảnh: Thế giới Di sản Nguồn gốc của nhã nhạc từ thế kỷ 13 nhưng chỉ phát triển, đạt độ điêu luyện dưới triều Nguyễn (1802-1945), thường được trình diễn trong các dịp đại lễ của triều đình, cúng tế thần linh, lễ đăng quang, lễ tang của vua và hoàng hậu, đón tiếp sứ thần. Các bậc vương thần, nhà quyền quý dưới thời Nguyễn cũng thường tổ chức những buổi nhã nhạc để thưởng thức. Từ đó, âm nhạc này gắn liền cung đình Huế, phát triển theo mô thức quy phạm. Ngày nay, dưới các hình thức như dàn nhạc, ca chương, vũ khúc, nhã nhạc cung đình Huế được diễn xướng trong lễ hội dân gian, Phật giáo, nghi thức ngoại giao, phục vụ khách du lịch, dân địa phương vào lễ, Tết. Nhã nhạc cung đình Huế Các nghệ nhân biểu diễn bài nhã nhạc ''Phú Lục Địch''. Video: YouTube Trải nghiệm văn hóa Huế Nghệ nhân biểu diễn ca Huế trên sông Hương. Ảnh: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Năm 2015, ca Huế trở thành di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế đang làm hồ sơ trình UNESCO để được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Theo các tư liệu, ca Huế hình thành vào khoảng thế kỷ 17, có một hệ thống bài bản phong phú, gồm 60 tác phẩm thanh nhạc, khí nhạc theo điệu Bắc và điệu Nam. Điệu Bắc là những lời ca trang trọng, vui tươi còn điệu Nam sâu lắng, da diết. Ngoài hai điệu chính, ca Huế còn có hơi nhạc như Ai, Thương, Thiền, Xuân, nhằm diễn tả các sắc thái tình cảm. Trước đây, loại hình ca múa này là thú chơi tao nhã của hoàng thân quốc thích, gia đình quan lại ở Huế, nay đã được bình dân hóa, phục vụ mọi du khách. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhận định ca Huế có giá trị cao về nghệ thuật, tư tưởng thẩm mỹ, giáo dục, góp phần hình thành tính cách con người cố đô. Ca Huế 'Hò Mái Nhì, Nam Bình' Ca Huế ''Hò Mái Nhì, Nam Bình'' do nghệ sĩ Dạ Lê thể hiện. Video: YouTube Bến Thành Audio Video Nghề dệt Dèng (thổ cẩm) được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2016. Ảnh: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Dệt Dèng là nghề truyền thống của dân tộc Tà Ôi, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Người dân nơi đây sử dụng những sợi bông từ thiên nhiên để tạo sợi và các sắc màu. Đặc biệt, thợ dệt đưa hạt cườm trực tiếp vào sản phẩm làm hoa văn. Những tấm vải dệt Dèng mang vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng, với khoảng 76 loại hoa văn mô phỏng cây cối, muông thú, không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt mà còn là một tác phẩm nghệ thuật.Khung cảnh lễ hội Ada Koonh (Mừng lúa mới) của người Pa Cô. Năm 2019, lễ hội thuộc Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký quyết định. Ảnh: Sở Văn hóa, Thể thao tỉnh Thừa Thiên Huế Ada Koonh diễn ra khoảng tháng 12 âm lịch, theo chu kỳ 5 năm một lần hoặc sớm hơn khi làng được mùa lớn, mục đích thể hiện lòng thành kính đến các thần linh, biết ơn "Mẹ Lúa" và những loại giống cây trồng, cầu cho mưa thuận, gió hòa. Theo tài liệu của Cục Di sản Văn hóa, lễ hội không gói gọn trong phạm vi toàn làng mà mang tính liên làng, được xem là ngày hội lớn của người dân Pa Cô. Lễ vừa mang tính chất của một cư dân nông nghiệp hỏa canh, nhớ ông bà tổ tiên, các vị thần ban phúc, đồng thời thể hiện tính cộng đồng rõ nét trong sự cộng hưởng về hội xuân và cầu phúc.Phương Linh