Theo Bộ Công an có 5 đặc trưng cơ bản của tội phạm có tổ chức ở Việt Nam:
1. Là một tổ chức bí mật, khép kín, bất hợp pháp (có thể núp dưới danh nghĩa một tổ chức hợp pháp) được hình thành với mục đích là phạm tội. Tổ chức hoạt động rõ ràng, chặt chẽ, có tên cầm đầu, chỉ huy, có kỷ luật riêng được quy ước bằng miệng hoặc bằng văn bản.
2. Có số lượng người phạm tội đông, đã được thử thách và được tuyển lựa trong quá trình thực hiện tội phạm.
3. Hoạt động phạm tội mang tính chất hệ thống, có sự chỉ huy thống nhất, mục đích cuối cùng là thu lợi bất hợp pháp về kinh tế.
4. Những tên cầm đầu luôn tìm mọi cách tạo vỏ bọc kín để chỉ huy các thành viên hoạt động phạm tội. Các vỏ bọc này thường dưới các hình thức phụ trách nhà hàng, khách sạn, tổ đội lao động, các công ty tư nhân, nhà doanh nghiệp... Thậm chí cả hoạt động từ thiện để từng bước ra công khai, tạo uy tín và đi vào con đường làm giàu.
5. Móc nối với một số cán bộ, nhân viên nhà nước biến chất, bằng nhiều thủ đoạn với mục đích lôi kéo họ giúp đỡ, tạo điều kiện che chắn cho bọn chúng trong việc thực hiện và che giấu tội phạm hoặc để trốn tránh pháp luật khi cần thiết.
Ở Việt Nam, gần đây tội phạm có tổ chức đã phát triển và diễn biến phức tạp. Đặc biệt, loại hình hoạt động theo kiểu "xã hội đen" đã xuất hiện ở một số tỉnh, thành phố. Điển hình là các băng: Phúc "Bồ", Khánh "Trắng" ở Hà Nội; Hùng "Bo", Tài "Lừa", Sáu "Râu" Tư Kiệt, Trương Văn Cam tại TP HCM; băng Dung "Hà", Cu Nên ở Hải Phòng; băng Sơn Điều, Hà Khôi tại Nam Định...
Hầu hết các băng nhóm tội phạm có tổ chức cao và số lượng trên dưới 20 tên đều núp dưới danh nghĩa các tổ chức doanh nghiệp, đội bốc xếp, kinh doanh khách sạn, nhà hàng... để hoạt động phạm tội.
15 năm qua hơn 15.000 băng, ổ, nhóm tội phạm hình sự đã bị triệt phá. |
Ở nước ta hiện nay hình thành 2 loại cơ bản. Thứ nhất là tội phạm có tổ chức có cơ cấu tổ chức đơn giản (tội phạm có tổ chức đơn giản). Đây là những nhóm quan hệ với nhau nhất thời, tổ chức thiếu chặt chẽ với số lượng thành viên không nhiều. Lúc đầu, chúng hoạt động đơn lẻ hoặc chỉ 2-3 tên, phạm tội có tính bột phát ít gây hậu quả nghiêm trọng. Sau đó chúng móc nối với nhau câu kết thành nhóm với sự cầm đầu của một tên có tai tiếng trong giới giang hồ. Tuy vậy, tội phạm có tổ chức đơn giản không có sự phân chia thứ bậc một cách rõ ràng. Chủ yếu chúng sử dụng bạo lực để ra tay manh động, nhanh chóng, rồi giải tán ngay khi giải quyết xong một “phi vụ”. Nhóm này gây ra các loại án như giết người, cướp của, trộm cắp, lừa đảo...
Tội phạm có tổ chức đơn giản không có tài chính riêng, không có “điều lệ” hoạt động một cách chính thức mà chủ yếu quan hệ với nhau theo quy ước đơn giản. Mục đích chính của chúng là chiếm đoạt tài sản và khi chiếm đoạt được tài sản chúng thường chia nhau ngay theo công lao của mỗi thành viên hoặc sử dụng ngay cho những việc nhất thời: ăn chơi, cờ bạc, chích hút ma túy, chơi số đề, cá cược... Loại tội phạm này hoạt động trắng trợn, lỏng lẻo, nhất thời, nên dễ bị tan rã khi một tên trong nhóm bị bắt hoặc bị truy đuổi. Những tên trốn thoát thường chuyển sang địa bàn khác lẩn trốn để rồi nếu có cơ hội và điều kiện có thể tiếp tục nhen nhóm thành nhóm tội phạm khác.
Thành phần phạm tội thường là những tên có nhiều tiền án tiền sự, tính tình thô bạo, tàn ác, côn đồ, trình độ văn hóa thấp, không có công ăn việc làm, hoặc làm lao động đơn giản, mức thu nhập thấp. Thành phần xuất thân thường là trong gia đình (cha, mẹ, anh, chị em) là những người đã có tiền án tiền sự. Một số khác do điều kiện hoàn cảnh khó khăn vì miếng cơm manh áo phải làm thuê cho bọn chỉ huy rồi bị khống chế, ép buộc từng lao vào con đường phạm tội.
Tuy có cơ cấu tổ chức đơn giản nhưng bọn này lại thường gây ra các vụ án cực kỳ nghiêm trọng. Chẳng hạn băng cướp Bạch Văn Chanh cùng nhiều người khác đã gây ra 30 vụ cướp, 3 vụ giết người. Băng Hoàng Văn Chung ở Lạng Sơn là thủ phạm của 40 vụ cướp tại Sơn vào năm 1992. Nhóm Đỗ Thái Bình gây ra 64 vụ cướp trên quốc lộ 1A (khu vực tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng)...
65% thành viên của các tổ chức tội phạm đã có tiền án tiền sự. 70% có tuổi đời từ 18 đến 35. Không nghề nghiệp chiếm 70%. |
Loại thứ hai là tội phạm có tổ chức ở mức cao hoạt động theo kiểu “xã hội đen” (gọi tắt là tội phạm có tổ chức cao). Loại này đã tồn tại ở nước ta ở một số tỉnh phía Nam từ những năm trước giải phóng. Tội phạm có tổ chức cao bắt đầu được xuất hiện trở lại ở nước ta cách đây 5-7 năm. Chúng thường hiện diện ở ở các thành phố và các tỉnh lớn có nền công nghiệp, dịch vụ và du lịch phát triển, những địa bàn có khai thác khoáng sản quý (vàng, đá quý) mà những người lao động tự do ở khắp nơi kéo đến đông để khai thác hoặc làm thuê. Đây là những tổ chức tội phạm bí mật, khép kín với cơ cấu tổ chức rõ ràng, bền vững có mục tiêu hoạt động lâu dài, có cơ cấu tổ chức rõ ràng, chặt chẽ, bền vững với hai hoặc ba cấp.
Cấp cầm đầu (thủ lĩnh) có thể là 1 hoặc 2, 3 tên, nhưng thường có một tên đứng đầu chúng gọi là boss, thủ lĩnh, đại ca, băng trưởng... Được chọn làm “thủ lĩnh” của tổ chức tội phạm ở mức cao, thường là những tên có đầu óc tổ chức, có hiểu biết khá rộng (về luật pháp, về xã hội...) và mối quan hệ rộng rãi trong xã hội, có quá khứ “oanh liệt” trong giới giang hồ hoặc các "thế giới ngầm". Cấp cầm đầu quyết định mọi hoạt động của tổ chức tội phạm này. Những tên này thường ít trực tiếp tham gia vào việc gây án, mà điều hành qua số chỉ huy. Sự “chỉ đạo” gián tiếp này ngày càng làm cho tên cầm đầu ít có nguy cơ bị sa lưới pháp luật.
Ở cấp chỉ huy, mỗi tổ chức tội phạm cao có nhiều nhóm. Mỗi nhóm lại có 1 hoặc 2 tên chỉ huy do thủ lĩnh trực tiếp chỉ định. Những tên này điều hành các hoạt động cụ thể của các tổ, nhóm theo lệnh của “thủ lĩnh” và có trách nhiệm báo cáo cho thủ lĩnh về mọi hoạt động của thành viên trong nhóm, thu tiền kiếm được nộp cho chỉ huy. Trong các tổ chức tội phạm số tiền thu nhập (chúng gọi là trả lương) của cấp chỉ huy rất cao so với cấp tay chân.
Các thành viên của các băng, nhóm tội phạm là những tên trực tiếp thực hiện các hành vi phạm tội, cũng như mọi nhiệm vụ do nhóm trưởng, tổ trưởng giao.
Để tổ chức đấu tranh chống mafia và các tội phạm quốc tế, Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với Liên Hiệp Quốc và các nước. Từ năm 1991, cảnh sát Việt Nam đã tham gia Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol). Năm 1995-1997 tham gia Hiệp hội Cảnh sát các nước ASEAN (ASEANAPOL), 3 Công ước Liên Hiệp Quốc về kiểm soát ma túy. Năm 2000 tham gia Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; năm 2003 là Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng...
(Theo Công An Nhân Dân)