Thông tin do Thầy thuốc nhân dân, Phó giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Lê Hoàng - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội chia sẻ tại buổi Tọa đàm về điều trị vô sinh hiếm muộn, phát trực tiếp trên VnExpress vào ngày 18/3. Chương trình còn có sự tham gia của Thạc sĩ, bác sĩ Giang Huỳnh Như - Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM; Thạc sĩ, bác sĩ Lê Đăng Khoa - Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM.
Theo Phó giáo sư Lê Hoàng, những năm đầu Việt Nam làm thụ tinh ống nghiệm (1998-2000), tỷ lệ thành công khoảng 20-25%, hiện tại trung bình đạt 40-50%, tương đương với thế giới. Tại một số cơ sở tiên tiến khác, tỷ lệ này có thể lên tới 50-60%, nếu điều trị từ sớm, bằng kỹ thuật hiện đại. Riêng tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, tỷ lệ này lên tới 63%, tính trên cả bệnh nhân lớn tuổi, vô sinh lâu năm. "Vô sinh nhưng không vô vọng, sự tiến bộ của y học giúp nhiều vợ chồng có con như một kỳ tích", bác sĩ Hoàng chia sẻ.
Chẩn đoán toàn diện - tiền đề cho điều trị trúng đích
Vô sinh hiếm muộn có rất nhiều nguyên nhân, 40% từ vợ, 40% từ chồng, 10% từ hai vợ chồng và còn lại 10% không rõ nguyên nhân, tức cả vợ và chồng đã làm xét nghiệm nhưng mọi thứ bình thường. Ngày nay, với nhiều phương pháp kỹ thuật mới, việc xác định nguyên nhân gây vô sinh sẽ chính xác, nhanh và đơn giản hơn, từ đó giúp bác sĩ có hướng điều trị phù hợp, hiệu quả, rút ngắn thời gian điều trị và giảm chi phí cho người bệnh.
Đối với người vợ, để xác định nguyên nhân vô sinh, thông thường sẽ được siêu âm, xét nghiệm xem số lượng trứng trên buồng trứng như thế nào chứ không đánh giá được chất lượng trứng; hay việc chụp 2 ống dẫn trứng xem có thông hay không nhưng chưa kiểm tra được chức năng vòi trứng như thế nào. Do đó, việc chụp tử cung vòi trứng, siêu âm buồng tử cung, nội soi buồng tử cung có lợi ích là vừa chẩn đoán bệnh và vừa điều trị bệnh. Sinh thiết nội mạc tử cung, phân tích gen để đánh giá giai đoạn, thời điểm chuyển phôi tốt nhất, loại trừ những bệnh lý như viêm nội mạc tử cung mãn tính, xác định xem vi khuẩn gì, dùng kháng sinh nào để điều trị...
Về tinh trùng, xét nghiệm tinh dịch đồ để xem tinh trùng di động thế nào nhưng biết tinh trùng này có kết hợp được với trứng hay không. Nam giới cần làm thêm các xét nghiệm đánh giá sự toàn vẹn di truyền của trứng, tinh trùng như thế nào là cần thiết. Kỹ thuật micro CT hiện đại cũng cho phép tìm được 70-80% trường hợp mà trước đây bị kết luận là vô tinh...
Bác sĩ Giang Huỳnh Như lấy ví dụ, trường hợp bệnh nhân sảy thai liên tiếp, vợ chồng cần làm một số xét nghiệm, tầm soát về di truyền. Người vợ xét nghiệm về số lượng trứng bởi số lượng trứng ít phần nào ảnh hưởng đến chất lượng trứng, dẫn đến chất lượng phôi kém, có thể khiến sảy thai. Với người chồng, bên cạnh xét nghiệm tinh trùng cần xét nghiệm thêm về sự toàn vẹn ADN. Ngay cả khi vợ chồng làm tất cả xét nghiệm nhưng khoảng 80% không tìm thấy nguyên nhân khiến sảy thai liên tiếp. Trong trường hợp này, bác sĩ có các biện pháp hỗ trợ nội tiết phù hợp ở lần có thai tiếp của bệnh nhân, thì đa số có thể giữ được thai. Nếu tìm thấy nguyên nhân, ứng với từng nguyên nhân cụ thể sẽ có các biện pháp phù hợp để giữ được thai.
Hoặc trong trường hợp đã IVF nhiều lần nhưng không thành công, bác sĩ Huỳnh Như khuyên nên làm thêm sinh thiết phôi vì những gì quan sát có thể chưa phản ảnh bản chất của phôi. Kỹ thuật này giúp xem xét các bất thường về di truyền, từ đó có phương pháp điều trị phù hợp và hiệu quả.
Nếu trải qua khá nhiều lần chuyển phôi (từ phôi tươi đến phôi trữ) nhưng chưa thành công, bệnh nhân nên trở lại bệnh viện và làm các khảo sát về nguyên nhân thất bại của chuyển phôi, xem xét nội mạc tử cung: như nội soi buồng tử cung xem xét về bất thường, nội mạc tử cung chuẩn bị phù hợp, thời điểm chuyển phôi đúng hay chưa. Nội mạc tử cung chỉ chấp nhận phôi bám vào ở khung thời gian rất ngắn. Bác sĩ cần xác định đúng khoảng thời gian đưa phôi vào buồng tử cung phù hợp. Điều này quyết định hai phần ba sự thành công của chu kỳ đó.
Với nam giới, không tính riêng từng thông số mà phải tổng hòa tất cả. Bác sĩ Đăng Khoa chia sẻ, bệnh viện Đa khoa Tâm Anh dựa trên chỉ số là tổng số tinh trùng di động, tức là lấy tổng số tinh trùng trong một lần xuất tinh đó, nhân với số tinh trùng di động tính bằng phần trăm. Số phần trăm này nhiều hay ít không quan trọng, quan trọng là kết quả sau khi nhân ra nếu trên 10 triệu, được coi là trong ngưỡng bình thường, bệnh viện chỉ can thiệp như bơm tinh trùng, canh noãn giao hợp. Nếu kết quả là 1-10 triệu hoặc thấp hơn 1 triệu thì mới thực hiện IVF.
Các bác sĩ khẳng định, trong khám hiếm muộn, yếu tố thời gian luôn quan trọng nhất. Nếu vợ chồng dưới 35 tuổi, kết hôn 12 tháng hoặc trên 35 tuổi (kết hôn sau 6 tháng) mà chưa có con thì thăm khám sớm. Cần chuẩn bị về tâm lý, kinh tế vì điều trị hiếm muộn là một đoạn đường hết sức căng thẳng và gian nan. Dù tỷ lệ thành công cao đến đâu nhưng không bao giờ đạt 100%, vì vậy sự đồng lòng, động viên của hai vợ chồng, cùng nhau vượt qua khó khăn rất quan trọng.
Kỹ thuật hiện đại giúp tăng tỷ lệ điều trị thành công
Phó giáo sư Lê Hoàng cho biết, dự trữ buồng trứng (AMH) thấp là vấn đề mà các bác sĩ và bệnh nhân trong điều trị vô sinh hiếm muộn phải đối mặt. Số lượng noãn thu được trong mỗi chu kỳ ít, cơ hội thành công giảm. Đánh giá AMH cần thiết và phải làm trước khi bắt tay vào điều trị vô sinh hiếm muộn.
Tuy nhiên, AMH dưới 1 vẫn có thể điều trị được nếu kiên trì phối hợp cùng bác sĩ. Trường hợp dưới 0,1 vẫn có thể điều trị thành công. Có nhiều cách điều trị dự trữ buồng trứng thấp như phác đồ kích thích buồng trứng chuẩn, phác đồ kích thích buồng trứng kém.
Trong 10% vô sinh không rõ nguyên nhân, bác sĩ sẽ chỉ định điều trị, bằng bơm tinh trùng vào buồng tử cung. Sau 2 lần bơm tinh trùng không thành công thì sẽ làm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). IVF lúc này mang 2 ý nghĩa, vừa là chẩn đoán vừa điều trị. Vì chỉ IVF mới biết được chất lượng trứng thế nào, tinh trùng thụ tinh với trứng hay không, chất lượng phôi ra sao.
Các bác sĩ có nhiều phác đồ khác nhau để chuẩn bị nội mạc tử cung tốt nhất cho quá trình chuyển phôi. Với nội mạc tử cung mỏng sẽ có làm dày hơn. Những trường hợp khó, sử dụng nhiều biện pháp nhưng nội mạc tử cung vẫn mỏng, bác sĩ sử dụng phương pháp bơm huyết tương giàu tiểu cầu vào buồng tử cung.
Khi người chồng gặp các vấn đề như tinh trùng ít, yếu, dị dạng, phân mảnh..., các chuyên gia phôi học thực hiện kỹ thuật làm giảm tỷ lệ phân mảnh ADN của tinh trùng, hay còn gọi là tỷ lệ làm cho vật liệu di truyền của tinh trùng bị tổn thương. Chính những tổn thương này ảnh hưởng đến việc có con của các cặp vợ chồng.
Riêng với những người bị tinh trùng ít, yếu, dị dạng... do lối sống, tiếp xúc với chất phóng xạ, độc hại, nhiệt độ, quan hệ tình dục bừa bãi, chấn thương, thực hiện thủ thuật gây tai biến đến cơ quan sinh dục..., việc điều trị tập trung vào 3 hướng. Đầu tiên là thay đổi lối sống, tránh xa môi trường độc hại, ăn uống lành mạnh, tập thể thao thường xuyên. Hướng thứ 2 là điều trị rối loạn nội tiết, rối loạn chuyển hóa ảnh hưởng đến khả năng sinh tinh. Hướng thứ 3 là phẫu thuật, với người không có tinh trùng sẽ dùng thủ thuật lấy tinh trùng rồi IVF; còn ở người mắc bệnh lý làm giảm khả năng sinh tinh (tràn dịch tinh mạc, thoát vị bẹn...) thì sẽ phẫu thuật để giải quyết các bệnh lý này.
Trường hợp tinh trùng không thể khoan thủng để đi vào trứng, bác sĩ khuyến cáo nên thực hiện IVF. Bác sĩ dùng kỹ thuật ICSI tiêm tinh trùng vào bào tương trứng để quá trình thụ tinh diễn ra tốt nhất.
Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công IVF là chất lượng của phôi. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, trí tuệ nhân tạo (AI) được đưa vào để đánh giá chất lượng phôi, giúp theo dõi số lượng thực tiễn trên hàng triệu phôi được nuôi dưỡng trong thụ tinh ống nghiệm, từ lúc hình thành đến giai đoạn phát triển, có thai, đến khi bé được sinh ra. Nếu hai phôi nhìn bên ngoài có thể độ tốt như nhau nhưng nhờ AI đánh giá cả quá trình có thể cho biết phôi nào tốt hơn, có khả năng làm tổ cao hơn.
Tuy nhiên, theo Phó giáo sư Lê Hoàng, nếu có phôi tốt nhưng chất lượng của nội mạc tử cung không tốt (về hình thái, chất lượng), không xác định đúng thời điểm khiến phôi khó khăn làm tổ trong buồng tử cung thì cũng khó đậu thai. Do đó, tại Bệnh viện Tâm Anh, với trường hợp chuyển phôi thất bại nhiều lần, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ điều trị đặc biệt, có thể kết hợp bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân giúp tăng chất lượng của nội mạc tử cung và xét nghiệm ERA Test xác định thời điểm chuyển phôi phù hợp, giúp tăng tỷ lệ thành công.
Trong buổi tọa đàm, các chuyên gia nhấn mạnh, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn trên thế giới và cả Việt Nam đều rất đáng báo động. Tỷ lệ vô sinh thế giới hiện nay khoảng 8-15% tùy theo quốc gia. Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ sinh ít nhất, vô sinh cao nhất. Tỷ lệ vô sinh của Việt Nam là 7,7%; tương đương khoảng 1 triệu cặp đôi, trong đó 50% là vợ chồng dưới 30 tuổi.
Tỷ lệ vô sinh thứ phát (từng có thai rồi nhưng sau đó không thể có thai nữa) cũng tăng lên mỗi năm. Từ ca thụ tinh ống nghiệm đầu tiên năm 1987 đến 2018, thế giới có 8 triệu em bé thụ tinh ống nghiệm ra đời. Sau đó cứ mỗi năm có thêm 2 triệu em bé ra đời nhờ phương pháp này.
Sau 20 năm điều trị vô sinh hiếm muộn, bác sĩ Huỳnh Như nhắn nhủ các cặp vợ chồng đang mong con hãy đi khám sớm nhất có thể, tỷ lệ thành công sẽ cao. Hiện y khoa thế giới và nước nhà đã có nhiều bước tiến quan trọng, đa số nguyên nhân gây vô sinh đều có thể giải quyết.
Còn bác sĩ Lê Đăng Khoa khuyên nam giới nên quan tâm nhiều hơn đến vợ (thể chất lẫn tinh thần), đừng chỉ tập trung nâng cao chất lượng tinh trùng. Nếu điều trị vô sinh hiếm muộn thành công, nam giới vẫn nên thăm khám định kỳ, kiểm tra, bảo tồn khả năng sinh sản và sức khỏe bản thân. Vì tinh hoàn là cơ quan rất đặc biệt, ngoài việc duy trì nòi giống còn đảm bảo tiết hormone để có vẻ ngoài nam tính và sức khỏe tốt.
Xem thêm các câu trả lời của bác sĩ đến độc giả vô sinh hiếm muộn
Hoài Nhơn - Ngọc An (Ảnh: Hữu Khoa)