Vào thời điểm tháng 1/2020, không ai nghĩ rằng loại thuốc con nhộng màu cam đó sẽ có bất cứ vai trò gì trong nỗ lực ứng phó Covid-19. Thuốc khi ấy chưa được thử nghiệm trên người. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy người dùng sẽ cần liều lượng rất lớn để thuốc phát huy hiệu quả. Một số nhà khoa học còn lo ngại rằng nó có thể gây độc cho cơ thể.
Nhưng tiến sĩ Wayne Holman và vợ Wendy Holman đặt niềm tin vào loại thuốc kháng virus này. Nó được các nhà khoa học tại Đại học Emory, thành phố Atlanta, bang Georgia của Mỹ phát hiện và đã khống chế thành công hai chủng virus corona trong phòng thí nghiệm. Vì thế, tiến sĩ Wayne Holman tin rằng nó cũng có thể chống lại chủng virus corona mới.
Ridgeback Biotherapeutics LP, công ty do hai vợ chồng ông thành lập, nắm bản quyền loại thuốc này, sau khi được Đại học Emory chuyển giao đơn đăng ký sản phẩm vào tháng 1/2020.
"Chúng tôi nghĩ rằng cần phải hoàn thành dự án này, ngay cả khi có rủi ro", tiến sĩ Holman nhớ lại. "Chúng tôi cảm thấy không thể ngồi yên chờ đợi".
Ridgeback nhanh chóng khởi động nghiên cứu giai đoạn một, xem xét dược động học, tính an toàn và khả năng dung nạp molnupiravir ở người nhiễm nCoV. Sau khi thu được kết quả khả quan ở giai đoạn một, Ridgeback quyết định bắt tay với gã khổng lồ ngành dược phẩm Merck để tiếp tục phát triển thuốc viên molnupiravir, như tên gọi của nó hiện nay.
Thuốc đã được các cơ quan quản lý ở Anh và Đan Mạch phê chuẩn sử dụng với những người trưởng thành có nguy cơ cao như một phương pháp điều trị. Nó có thể được cấp phép tương tự ở Mỹ trong tháng này.
Cùng với thuốc kháng virus của Pfizer, cũng đang được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) xem xét, molnupiravir được kỳ vọng sẽ lấp đầy một chỗ trống lớn trong "tủ thuốc đại dịch": Một viên thuốc mà những người mới nhiễm nCoV có thể uống tại nhà để giảm bớt các triệu chứng và tránh phải nhập viện.
Molnupiravir có thể không phải quân bài thay đổi cuộc chơi như nhiều người kỳ vọng. Thuốc chỉ có hiệu quả 30% trong giảm nguy cơ nhập viện và tử vong, theo kết quả thử nghiệm giai đoạn cuối, thấp hơn so với mức hiệu quả 50% ở các nghiên cứu sơ bộ. Trong khi đó, Paxlovid, thuốc viên của Pfizer, có hiệu quả 89%.
Merck và Ridgeback cũng phải vượt qua những lo ngại về an toàn. Theo một số nhà khoa học, molnupiravir có thể dẫn đến đột biến ADN. Tuy nhiên, FDA trấn an trong một báo cáo rằng nguy cơ đối với con người được cho là thấp và các nhà khoa học của công ty khẳng định họ không tìm thấy bằng chứng về đột biến do thuốc khi thử nghiệm trên động vật. Merck cho biết nghiên cứu giai đoạn cuối của họ cũng cho thấy loại thuốc này an toàn.
Dù vậy, nhu cầu ngày càng cấp thiết về các loại thuốc mà mọi người có thể dễ dàng sử dụng tại nhà để ngăn bệnh trở nặng, đặc biệt trong bối cảnh biến chủng Omicron lan rộng như hiện nay, sẽ khiến molnupiravir có một vị trí quan trọng trong kho vũ khí chống Covid-19, giới chuyên gia y tế đánh giá.
Các nhà khoa học cho rằng sau cùng, những thuốc kháng nCoV có thể được sử dụng kết hợp với nhau nhằm ngăn virus phát triển khả năng kháng thuốc. Molnupiravir có thể đạt doanh thu 6 tỷ USD trên toàn thế giới trong năm tới, trong khi Paxlovid có thể đạt 18 tỷ USD, theo phân tích từ JP Morgan.
Molnupiravir cũng gây tranh cãi với mức giá hơn 700 USD cho một đợt điều trị ở các nước giàu có. Nhiều người cho rằng với mức giá này, Merck và Ridgeback sẽ kiếm được lợi nhuận rất lớn từ một loại thuốc mà chính phủ Mỹ tài trợ nghiên cứu ban đầu.
Tuy nhiên, Merck đã cấp phép molnupiravir cho các nhà sản xuất thuốc thông thường và một tổ chức phi lợi nhuận y tế công cộng được Liên Hợp Quốc hậu thuẫn để cung cấp thuốc giá cả phải chăng cho các nước nghèo. Merck cho biết các nước giàu có sẽ phải trả nhiều tiền hơn với các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Vợ chồng Holman nói rằng họ đã thực hiện một "canh bạc", khi đặt cược tiền túi của mình vào một phương thuốc chưa được chứng minh hiệu quả và các nhà đầu tư khác cũng tỏ ra ít quan tâm.
"Đây là một hợp chất mà không ai khác thực sự muốn phát triển", Holman nói, song từ chối tiết lộ vợ chồng ông đã đầu tư bao nhiêu cho molnupiravir.
Tiến sĩ Wayne Holman, 49 tuổi, điều hành quỹ đầu tư của riêng mình mang tên Ridgeback Capital, chuyên tập trung vào công nghệ sinh học. Wendy Holman, 46 tuổi, vợ ông, từng điều hành các khoản đầu tư vào chăm sóc sức khỏe cho Ziff Brothers Investments, công ty hoạt động cho một trong những gia đình giàu có nhất nước Mỹ.
Cặp đôi, gặp nhau tại một hội nghị về ung thư, đã sử dụng tài sản cá nhân để thành lập Ridgeback Biotherapeutics, có trụ sở tại Miami, vào năm 2016. Wendy, người đã rời vị trí tại Ziff Brothers Investments, cho biết bà muốn có một sự nghiệp mới mà ở đó bà có thể áp dụng các kỹ năng của mình "để tác động trực tiếp đến sức khỏe và giúp giảm bớt nỗi đau khổ của con người".
Mục tiêu của họ là phát triển các loại thuốc chữa bệnh truyền nhiễm chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Các loại thuốc điều trị bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện thường thu hút ít nhà đầu tư, bởi thị trường thương mại cho chúng đa phần nhỏ và khó dự đoán, thường cạn kiệt khi dịch bệnh thuyên giảm.
"Về cơ bản, chúng tôi quyết định rằng chúng tôi sẽ sử dụng vốn để làm những việc mà không ai khác làm", Wendy, giám đốc điều hành Ridgeback, cho hay.
Vợ chồng Holman để ý tới molnupiravir trong lúc tìm kiếm một loại thuốc mới chữa bệnh Ebola. Wendy đã tham dự một hội nghị y tế ở San Francisco hồi tháng 1/2020 với người phát hiện ra molnupiravir, George Painter. Ông là giám đốc điều hành Drug Innovation Ventures (Drive), một công ty công nghệ sinh học phi lợi nhuận thuộc Đại học Emory ở Atlanta.
Thuốc kháng virus rất khó phát triển. Chúng được thiết kế để cản trở chu kỳ nhân lên của virus. Nhưng virus có ít khối cấu tạo protein của riêng chúng để thuốc có thể nhắm mục tiêu. Chúng chủ yếu sinh sản bằng cách dựa vào tế bào mà chúng đã lây nhiễm. Thách thức đối với các nhà khoa học là phát minh ra loại thuốc tấn công virus mà không gây hại cho vật chủ, tức con người.
Tiến sĩ Painter, nhà phát minh ra nhiều loại thuốc, trong đó có cả thuốc điều trị HIV và viêm gan B, đã nghiên cứu về thứ sẽ trở thành molnupiravir từ năm 2013.
Với nguồn tài trợ từ Cơ quan Giảm thiểu Đe dọa Quốc phòng Mỹ, ông ban đầu phát triển nó để điều trị virus viêm não ngựa Venezuela, một mầm bệnh lây truyền qua muỗi. Các nhà nghiên cứu quân sự Mỹ và Liên Xô từng nghiên cứu phát triển loại virus này thành một vũ khí sinh học có thể khiến nạn nhân sưng não khi hít vào và tử vong sau vài giờ.
Tiến sĩ Painter đã chọn một hợp chất hóa học có thể xâm nhập vào não một cách hiệu quả và sửa đổi nó để tạo thành thuốc, đặt tên là EIDD-2801. Những người lính có thể mang theo và sử dụng nó khi tiếp xúc với virus.
Painter và các nhà khoa học khác phát hiện ra rằng EIDD-2801 có tác dụng với nhiều loại virus khác, trong đó có Ebola. Nó cũng hiệu quả khi chống lại virus corona đã gây ra dịch bệnh SARS và hội chứng hô hấp Trung Đông, cũng như bệnh cúm.
Vào cuối tháng 1/2020, vợ chồng Holman và các nhà khoa học tại Đại học Emory đã xác định được rõ ràng rằng nCoV sẽ lây lan rộng. Thế giới sẽ mất rất nhiều tháng để phát triển vaccine.
Wendy và một nhóm chuyên gia Ridgeback vội đến Atlanta, nơi họ dành 8 giờ họp với các nhà khoa học đang nghiên cứu dữ liệu EIDD-2801.
Tại Miami, tiến sĩ Wayne tiếp tục đào sâu các nghiên cứu về thuốc kháng virus EIDD-2801. Dữ liệu có vẻ đáng khích lệ. Loại thuốc này đã phát huy tác dụng với hai chủng virus corona khác khi được thử nghiệm trên chuột và con người có thể sẽ không cần một liều lượng lớn như động vật trong phòng thí nghiệm.
Wendy phải chạy đua với thời gian để đẩy nhanh quá trình thử nghiệm thuốc. Nếu nó được chứng minh an toàn, Ridgeback muốn tạo ra một triệu liệu trình điều trị.
Tháng 3/2020, Ridgeback đã đăng ký bản quyền cho thuốc và thiết lập quan hệ đối tác với Drive để phát triển EIDD-2801 cùng các mẫu khác.
EIDD-2801 cần một cái tên. Tiến sĩ Wayne nghĩ về Thor, siêu anh hùng trong những bộ phim mà ông đã xem cùng các con mình. Thor sử dụng một chiếc búa có sức mạnh đặc biệt được gọi là mjolnir, và cái tên molnupiravir ra đời.
Vợ chồng Holman đã chi tiền cho quá trình thử nghiệm và sản xuất molnupiravir. Các mối liên lạc từ quãng thời gian làm việc tại Ziff Brothers đã giúp Wendy kết nối với một công ty ở Leeds, Anh, sẽ tiến hành thử nghiệm thuốc đầu tiên trên người ngay lập tức.
Tiến sĩ Wayne trong khi đó nghiên cứu cách để rút ngắn thời gian thử nghiệm ngắn nhất có thể mà vẫn đảm bảo an toàn. Theo kế hoạch của ông, các nhà nghiên cứu sẽ cấp một liều duy nhất cho những tình nguyện viên khỏe mạnh, chờ 48 giờ, sau đó kiểm tra xem họ đã dung nạp liều lượng thuốc chưa và có an toàn hay không.
Nếu không có vấn đề gì xảy ra, các nhà điều tra sẽ cung cấp nhiều liều cho nhiều tình nguyện viên hơn. Họ cũng sẽ thử nghiệm liều cao nhất tiếp theo trên một nhóm khác.
Cuộc thử nghiệm bắt đầu ngay sau khi các nhà quản lý cho phép tiến hành, khoảng ba tuần sau khi Ridgeback đăng ký bản quyền. Những người tình nguyện đầu tiên được dùng thuốc ở dạng bột nhằm tiết kiệm thời gian.
Roger Perlmutter, giám đốc nghiên cứu và phát triển của Merck, cho biết vào thời điểm đó, công ty đang thử nghiệm các loại thuốc của riêng mình để xem liệu loại nào có thể chống lại Covid-19, song không có bất kỳ tín hiệu khả quan nào.
Daria Hazuda, một quan chức cấp cao của Merck, đã theo dõi các nghiên cứu về EIDD-2801 như một phương pháp điều trị tiềm năng cho Ebola. Hazuda liên hệ với Đại học Emory vào tháng 4/2020, sau khi xem được một nghiên cứu mới chỉ ra rằng loại thuốc này có tác dụng chống lại nCoV trong các thử nghiệm.
Bà biết rằng vợ chồng Holman đã tiếp cận với Đại học Emory trước. Merck đã kết nối tiến sĩ Perlmutter với tiến sĩ Holman và họ đã nói chuyện qua điện thoại vào ngày 14/4/2020.
Khi Covid-19 ngày càng lan rộng, rõ ràng là một triệu liệu trình điều trị sẽ hết nhanh chóng. Vợ chồng Holman quyết định Ridgeback sẽ cần hợp tác với một nhà sản xuất thuốc lớn. Merck đồng ý tiếp tục chi hàng trăm triệu USD để nâng cấp và mở rộng quy mô các nhà máy sản xuất trước khi biết tác dụng của thuốc đến đâu.
Vợ chồng Holman muốn có một đối tác không chỉ nhanh chóng tiến hành thử nghiệm và sản xuất molnupiravir mà còn sẵn sàng chi tiền để điều chế trước khi biết liệu thuốc có hiệu quả hay không. Ngoài ra, họ cũng muốn làm việc với một công ty sẽ cấp phép thuốc cho các nhà sản xuất thứ cấp để mang molnupiravir đến những nước nghèo với giá cả phải chăng hơn.
Tháng 5/2020, Merck và Ridgeback công bố hợp tác, ráo riết tăng tốc thử nghiệm thuốc và hoàn thành mục tiêu sản xuất 10 triệu liều vào cuối năm 2021.
Giống như Ridgeback, Merck đã thực hiện các bước đồng thời thay vì tuần tự như truyền thống trong quá trình thử nghiệm molnupiravir, tiến sĩ Hazuda cho biết.
Một điều mà Merck quan tâm nhất là tính an toàn của molnupiravir. Thuốc hoạt động bằng cách đưa những đột biến vào ARN của virus khi nó cố gắng sao chép, tạo ra các lỗi làm suy yếu virus và cuối cùng dừng quá trình sao chép. Nhiều năm trước đó, một xét nghiệm sàng lọc tiêu chuẩn trong phòng thí nghiệm, được gọi là xét nghiệm Ames, cho thấy rằng thuốc này có thể tạo ra đột biến đối với cả ADN của con người.
Merck đã dành ít nhất 6 tháng để tự mình nghiên cứu độ an toàn của thuốc. Họ cũng thực hiện lại xét nghiệm Ames để xem khả năng molnupiravir gây ra đột biến tới đâu. Các nhà nghiên cứu của công ty đồng thời tiến hành hai thí nghiệm phức tạp khác khi tiêm liều cao thuốc cho chuột trong khoảng một tháng để xem liệu có những thay đổi di truyền trong ADN của chúng hay không. Kết quả thí nghiệm cho thấy không có bằng chứng về đột biến do molnupiravir gây ra.
Cuối cùng, molnupiravir trở thành một trong những loại thuốc được phát triển nhanh nhất xuyên suốt lịch sử 130 năm của Merck. Ridgeback và Merck cũng đang có kế hoạch nghiên cứu xem liệu molnupiravir có tác dụng với những bệnh khác, như cúm, hay không.
Vũ Hoàng (Theo WSJ)