GS Bùi Công Hiển, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội được giới nghiên cứu phong là người 'tiên phong nghiên cứu sinh lý học côn trùng'. Ở tuổi 80, "gia tài" ông có là bề dày các công trình nghiên cứu chuyên sâu về côn trùng học ở Việt Nam.
Là sinh viên trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau được giữ lại làm giảng viên cho đến lúc nghỉ hưu, khi đó ông được phân công chuyên ngành sinh học phù hợp với sở thích "nên cả cuộc đời gắn với côn trùng như "cái nợ", ông nói.
Chuyên môn sâu của GS Bùi Công Hiển là sinh lý học côn trùng, một lĩnh vực rất mới ở Việt Nam cách đây mấy chục năm. Nhớ lại thời điểm trước khi rời đất nước đi làm nghiên cứu sinh, chàng sinh viên năm ấy đến chào GS Đào Văn Tiến và xin ý kiến thầy để chọn hướng nghiên cứu. "Thầy Tiến có khuyên tôi nên chọn hướng nghiên cứu về sinh lý học côn trùng. Đây là vấn đề "xương xẩu", ít người muốn học. Nhưng nếu hiểu biết sẽ giúp mình phát triển nghiên cứu khoa học tốt hơn", ông kể.
Với ý kiến của thầy cùng nhận thức khi học tập chính trị trước khi đến nước bạn là "phải đón đầu thế giới" từ năm 1969, ông đã nhận luận án tiến sỹ với đề tài về Pheromon của một loài mọt. Đây là luận án Tiến sĩ đầu tiên ở CHDC Đức bảo vệ thành công năm 1973 kèm giải thưởng Humbold Preis năm 1974.
Những tưởng sẽ phát triển được hướng nghiên cứu này, nhưng do chiến tranh và cấm vận quá lâu, nên khi đó ông không thực hiện được ở Việt Nam. Do vậy ông đã chuyển hướng sang lĩnh vực côn trùng hại kho và mối. "Vì từ năm thứ tư, khi tốt nghiệp Đại học (1965) tôi đã có luận văn về mọt gạo. Hơn nữa lĩnh vực này rất ít người quan tâm", GS Hiển nhớ lại.
Những năm 1981-1982, Campuchia nhận viện trợ gạo của nước ngoài bị nhiễm Mọt cứng đốt (Trogoderma granarium) rồi thành dịch. Bộ đội Việt Nam khi về nước mang theo gạo về giúp gia đình để làm quà. Không ngờ lan thành dịch. Điều đáng quan tâm loài mọt này là đối tượng kiểm dịch của Việt Nam và thế giới. Do vậy, Ban Bí thư ra chỉ thị phải diệt loài mọt này với mật danh "mọt TG".
"Tôi đã sang Cục Bảo vệ thực vật tập huấn cho cán bộ các Chi cục nhận biết loài mọt này. Vì lúc đó ở Việt Nam không ai có vật mẫu và biết nhận dạng loài này, trong khi tôi đã nuôi và thí nghiệm với loài mọt này hơn 3 năm ở CHDC Đức. Cuối cùng loài mọt có mật danh này cũng bị tiêu diệt", GS Hiển nói.
Dành cả cuộc đời nghiên cứu về côn trùng, GS Hiển vẫn còn nhiều trăn trở nhưng "ở đoạn cuối của cuộc đời, không còn nhiều năng lượng để làm việc nữa", ông nói.
Theo ông, thế giới côn trùng đa dạng, phong phú. Côn trùng đem lại rất nhiều giá trị cho con người, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Sao con người vẫn cứ say sưa "chiến đấu" với côn trùng bằng "thuốc trừ sâu" của các hãng nước ngoài? Sao vẫn để một bộ phận người dân khai thác tận diệt những loài như Sâu chít, Sâu tre, Ong khoái, Kiến gai đen... mà không nhân nuôi thành các trang trại. Sao không đưa côn trùng vào giáo dục và hoạt động văn hóa, du lịch như nhiều nước đã làm?. Rồi có những loài côn trùng có giá trị vừa phải thôi, nhưng bị thổi phồng lên với biết bao nhiêu công dụng thần kỳ. Để rồi người mua, vì thiếu hiểu biết, thậm chí có khi rước họa vào thân. Ví dụ đơn giản nhất là trào lưu sử dụng đông trùng hạ thảo hiện nay.
GS Hiển cho biết, đông trùng hạ thảo được hình thành từ hiện tượng ấu trùng các loài bướm thuộc chi Thitarodes bị nấm thuộc chi Ophiocordyceps và/hoặc Cordyceps ký sinh. Đó là một dạng ký sinh giữa một loài nấm túi có tên khoa học là Ophiocordyceps sinensis với sâu non (ấu trùng) của một loài côn trùng thuộc chi Thitarodes. Đông trùng hạ thảo chủ yếu tìm thấy vào mùa hè vùng núi cao trên 4.000 m ở cao nguyên Thanh Tạng (Thanh Hải - Tây Tạng) và Tứ Xuyên (Trung Quốc). Nhưng hiện nay còn lại rất ít, gần như vô cùng hiếm gặp.
Loại đông trùng hạ thảo bán trên thị trường hiện nay đa phần là nhân nuôi nấm trên con tằm. Bản chất của Đông trùng hạ thảo thực sự khác hẳn với việc phun nấm lên con nhộng tằm. Về hình thức, vỏ của con sâu giữa Đông trùng hạ thảo và con nhộng tằm là giống nhau, có lẽ vì thế mà người ta lầm tưởng rằng chúng là một. Do đó, tác dụng cũng khác nhau. Đông trùng hạ thảo nguyên bản đúng là có những hoạt chất hiếm gặp thậm chí có thể ức chế hàng nghìn tế bào ung thư. Nhưng loại Đông trùng hạ thảo phổ biến trên thị trường hiện nay thì không có hoạt chất đó, hoặc có thì cũng cực kỳ ít, chỉ giống như các loại thực phẩm ăn hàng ngày có dưỡng chất tốt cho cơ thể mà thôi.
Nhắc lại những khó khăn và đam mê, GS Hiển ví đoạn đường nuôi con, kiếm tiền và làm khoa học "giống như bơi giữa biển. Lúc mỏi quá, thò chân xuống, vẫn chưa chạm đất, lại bơi tiếp. Rồi cuối cùng cũng đến bờ".
Điều GS Hiển biết ơn trong cuộc đời khoa học của mình là sự giúp đỡ nhiệt tình và vô tư của các nhà khoa học nước ngoài, trước là CHDC Đức và hiện là Liên bang Đức. Sau đó là các đồng nghiệp, thế hệ nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh... đã thổi lửa đam mê để ông gạt gánh lo cơm áo sang một bên, chuyên tâm nghiên cứu.
Ông bảo, "rất ít người làm khoa học mà giàu có. Tôi hàng tháng trời không có bữa trưa, nhưng vẫn phải lên lớp, vẫn phải ngồi phân tích mẫu ở phòng thí nghiệm. Nhưng không thể bảo như vậy là "say sưa" hơn. Đúng là "buộc vào mà đánh, khen thay chịu đòn".
Tô Hội
GS.TS Bùi Công Hiển bảo vệ luận án tiến sĩ xuất sắc năm 1973 tại Trường Đại học Tổng hợp Humboldt, Berlin, Cộng hòa Dân chủ Đức và được nhận giải thưởng Humboldt Preis.
Một số công trình tiêu biểu đã xuất bản gồm: Côn trùng hại kho (1992), Côn trùng học ứng dụng (2002), Pheromon của côn trùng (2002), Giao tiếp sinh học ở động vật (2009), Công trùng ở Việt Nam và phòng trừ côn trùng gây hại (2013), Động vật gây hại kho tàng và nhà cửa (2014), Tài nguyên côn trùng ở Việt nam (2019), Những côn trùng có giá trị ở Việt Nam (2020).