Bộ mới sau hợp nhất là lực lượng nòng cốt hiện thực hóa Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
1. Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ
Sau 80 năm giành độc lập và 50 năm thống nhất đất nước, Việt Nam đã có nhiều thành tựu nổi bật về kinh tế, xã hội, có vị thế và uy tín trên trường quốc tế. Trong đó, lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo liên tục hoàn thiện, trở thành động lực phát triển cho đất nước.
Năm 1958, miền Bắc hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế, bắt đầu phát triển kinh tế theo con đường chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thành công ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, Cách mạng kỹ thuật và Cách mạng tư tưởng và văn hóa, Việt Nam cần nhanh chóng đưa những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống và quốc phòng.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 14 của BCH Trung ương Đảng khóa II diễn ra tháng 11/1958 nhấn mạnh vai trò của khoa học kỹ thuật và sự cần thiết của việc thành lập Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Tháng 12/1958, Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ thông qua việc thành lập Uỷ ban Khoa học Nhà nước, tiền thân của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày nay.
Trải qua nhiều lần đổi tên với ba giai đoạn phát triển (1954-1975, 1975-1986 và 1986 đến nay), lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo của Việt Nam đạt nhiều thành tựu, phục vụ đời sống sản xuất của người dân cũng như an ninh quốc phòng, cũng như tạo vị thế trên thế giới.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Trường Chinh

Ông Trường Chinh. Ảnh: MST
Ông Trường Chinh (1907-1988) là một trong những người đã chỉ đạo trực tiếp việc hình thành Ủy ban Khoa học Nhà nước, và là chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban, từ tháng 12/1958 đến 7/1960. Giai đoạn đó, ông luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của khoa học trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt chú trọng phát triển khoa học, giáo dục để phục vụ công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Võ Nguyên Giáp

Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh: MST
Cùng với tài quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013) còn chú trọng đến khoa học kỹ thuật. Từ tháng 7/1960 đến tháng 1/1963, ông kiêm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, đưa ra nhiều kiến nghị sâu sắc về đổi mới quản lý khoa học và giáo dục, đồng thời định hướng phát triển khoa học kỹ thuật trong các giai đoạn sau, như xây dựng chiến lược khoa học biển, kinh tế biển và vấn đề môi trường.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Nguyễn Duy Trinh

Ông Nguyễn Duy Trinh. Ảnh: MST
Ông Nguyễn Duy Trinh (1910-1985) là một trong những lãnh đạo chủ chốt, gắn liền với lĩnh vực ngoại giao và khoa học kỹ thuật. Ông đảm nhiệm vị trí Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước từ tháng 1/1963 đến 10/1965, được đánh giá luôn sâu sát thực tiễn, có nhiều đóng góp quan trọng vào chiến lược, sách lược về phát triển kinh tế và cải tạo xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học sát với từng vùng, miền và trong từng thời điểm cách mạng.
Chủ nhiệm Ủy ban KHKT Nhà nước Trần Đại Nghĩa

Ông Trần Đại Nghĩa. Ảnh: MST
Từ năm 1965, miền Bắc chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện chiến tranh, vừa tập trung phát triển sản xuất để bảo đảm đời sống nhân dân, vừa tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng. Tình hình khoa học kỹ thuật có tiến bộ rõ rệt với đội ngũ cán bộ khoa học từng bước lớn mạnh, cơ sở nghiên cứu, trường đại học, trung học chuyên nghiệp được hình thành và gia tăng số lượng, nghiên cứu ứng dụng và phong trào sáng kiến cải tiến kỹ thuật ngày càng mở rộng. Tuy nhiên, so với yêu cầu to lớn, tiềm lực và trình độ khoa học và kỹ thuật khi đó vẫn hạn chế, gặp nhiều trở ngại, khó khăn trong điều kiện chiến tranh.
Năm 1965, Ủy ban Khoa học Nhà nước tách ra thành Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật (KHKT) Nhà nước và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Giáo sư Trần Đại Nghĩa (1913-1997) giữ vị trí Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 10/1965 - 2/1977. Trong gần 12 năm, ông đóng góp quan trọng trong việc phát triển khoa học và kỹ thuật trong bối cảnh đất nước đối mặt nhiều thiếu thốn về cán bộ, cơ sở vật chất và kinh phí, tập trung vào việc tổ chức, nghiên cứu và định hướng phát triển các ngành khoa học.
Sau giai đoạn Kháng chiến giành độc lập 1954-1975, cả nước bước vào công cuộc tái thiết và xây dựng đất nước thống nhất 1975-1986.
Chủ nhiệm Ủy ban KHKT Nhà nước Trần Quỳnh

Ông Trần Quỳnh. Ảnh: MST
Ông Trần Quỳnh (1920-2005) giữ vai trò Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước giai đoạn 1965-1976 trước khi được bầu làm Chủ nhiệm vào tháng 2/1977. Ông chức vụ này đến tháng 2/1980, đóng vai trò quản lý, điều phối và thúc đẩy nghiên cứu khoa học. Ông tham gia ký quyết định thành lập Trung tâm Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng nhà nước khu vực II, tiền thân của QUATEST 2 ngày nay.
Chủ nhiệm Ủy ban KHKT Nhà nước Lê Khắc

Ông Lê Khắc. Ảnh: MST
Ông Lê Khắc (1916-1990) đảm nhiệm vị trí Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ tháng 2/1980 đến 4/1982. Trước đó, năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, kiêm trưởng Ban Cơ học. Trong giai đoạn này, Ủy ban dần hoàn thiện, tiến tới kiện toàn và thành lập các tổ chức trực thuộc mới ở lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, năng lượng nguyên tử, quản lý khoa học và kỹ thuật địa phương.
Chủ nhiệm Uỷ ban KHKT Nhà nước Đặng Hữu

Ông Đặng Hữu. Ảnh: MST
Giáo sư Đặng Hữu (sinh năm 1930) giữ vai trò Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước từ tháng 4/1982-11/1996. Ông giữ cương vị đứng đầu ngành khoa học công nghệ lâu nhất trong các giai đoạn chuyển tiếp. Với gần 8 năm là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (4/1982-3/1990), gần ba năm là Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước sau khi đổi tên (4/1990-9/1992). Giai đoạn này Ủy ban Khoa học Nhà nước cũng đổi tên thành Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, và ông đảm nhiệm chức Bộ trưởng bốn năm (từ tháng 10/1992 đến tháng 11/1996).
Trong những năm đầu 1990, ông đề xuất và được Chính phủ chấp thuận xây dựng bốn Nghị quyết về phát triển Công nghệ Thông tin, Công nghệ Sinh học, Công nghệ Vật liệu mới và Công nghệ Tự động hóa - đều là tiền đề cho việc phát triển của bốn ngành quan trọng. Ông cũng kiện toàn hệ thống nghiên cứu nhà nước, tham gia vận động mở Internet (1994) và quá trình kết nối chính thức ngày 19/11/1997.
Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phạm Gia Khiêm

Ông Phạm Gia Khiêm. Ảnh: MST
Ông Phạm Gia Khiêm (sinh năm 1944) là Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường từ tháng 11/1996 đến 10/1997. Thừa hưởng loạt chính sách về khoa học và công nghệ từ giai đoạn của GS Đặng Hữu, trong gần một năm, ông tiếp tục hỗ trợ triển khai các chương trình quốc gia về công nghệ, đặc biệt trong quản lý nhà nước và giáo dục, cũng như thúc đẩy Luật Khoa học và Công nghệ (ban hành năm 2000).
Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường Chu Tuấn Nhạ

Ông Chu Tuấn Nhạ. Ảnh: MST
Ông Chu Tuấn Nhạ (sinh năm 1939) giữ vị trí Bộ trưởng Khoa học, Công nghệ và Môi trường từ tháng 10/1997 đến 8/2002. Ông thúc đẩy Luật Khoa học và Công nghệ ra đời, tạo cơ sở pháp lý cho các luật sau đó như Sở hữu trí tuệ, Chuyển giao công nghệ, Công nghệ cao... Giai đoạn này ông cũng chỉ đạo triển khai các chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước về nông nghiệp, công nghiệp, y tế, môi trường, ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất thay vì chỉ nghiên cứu hàn lâm.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Văn Phong

Ông Hoàng Văn Phong. Ảnh: MST
Tháng 8/2002, Bộ Khoa học và Công nghệ được thành lập sau khi lĩnh vực môi trường chuyển sang Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trong 9 năm ở cương vị Bộ trưởng, GS Hoàng Văn Phong (sinh năm 1948) thúc đẩy xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, trình Quốc hội ban hành các luật về sở hữu trí tuệ (2005), tiêu chuẩn (2006), chất lượng sản phẩm, hàng hóa (2007) và đo lường (2011). Đây là những lĩnh vực mới mẻ với Việt Nam khi đó nhưng thiết yếu cho tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần phân loại, đánh giá, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
Sự ra đời Quỹ Nafosted (2008) cũng là một cột mốc đáng nhớ trong công tác quản lý của ngành khoa học và công nghệ theo hướng tiệm cận thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Tư tưởng của chính sách thúc đẩy xu hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tăng sức mạnh khoa học công nghệ thông qua doanh nghiệp dưới thời Bộ trưởng Hoàng Văn Phong cũng phản ánh nỗ lực đưa ngành khoa học công nghệ vượt khỏi tư duy quản lý cũ từ thời kỳ bao cấp.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân

Ông Nguyễn Quân. Ảnh: MST
Ông Nguyễn Quân (sinh năm 1955) đứng đầu Bộ Khoa học và Công nghệ từ tháng 8/2011 đến 4/2016. Trong giai đoạn đó, Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 và một số Nghị định được thông qua, góp phần tạo dựng nền tảng cơ sở và diện mạo mới của ngành, như đổi mới cơ chế tài chính cho khoa học, chính sách ưu đãi và trọng dụng nhà khoa học, chính sách thu hút chuyên gia người Việt và quốc tế ở nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ... Ông cũng tích cực vận động cho quá trình hình thành Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc (VKIST).
Dù chưa mang lại thành quả như mong đợi, những nỗ lực của ông được ghi nhận trong bối cảnh các cơ chế, chính sách của ngành khoa học và công nghệ khi đó bị ràng buộc, hạn chế bởi những quy định về thuế, ngân sách nhà nước, quản lý công chức - viên chức...
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt

Ông Huỳnh Thành Đạt. Ảnh: MST
Ông Huỳnh Thành Đạt (sinh năm 1962) giữ chức Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ giai đoạn 2020-2025. Ông tập trung chỉ đạo rà soát những bất cập, hạn chế trong quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ, làm cơ sở để hoàn thiện thể chế hướng tới mô hình quản lý nhiệm vụ thông qua cơ chế Quỹ, phù hợp xu thế tiên tiến trên thế giới. Ông cũng tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu cơ bản, chỉ đạo thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở các vùng kinh tế - xã hội, các địa phương; hình thành liên kết ba nhà: nhà khoa học - nhà sản xuất - nhà quản lý trong việc đưa kết quả nghiên cứu, ứng dụng phục vụ kinh tế - xã hội, hình thành các chuỗi giá trị có hàm lượng khoa học và công nghệ.
Ông cũng chỉ đạo thực hiện các giải pháp thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam từ thứ hạng 48/132 năm 2022 lên 44/133 năm 2024. Hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo được tăng cường, có ý nghĩa nền tảng, củng cố cho các dự án lớn, quan trọng về khoa học và công nghệ của Việt Nam với các đối tác chiến lược.
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng

Ông Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Giang Huy
Ông Nguyễn Mạnh Hùng (sinh năm 1962) là Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ đầu tiên sau hợp nhất với Bộ Thông tin và Truyền thông vào tháng 3/2025. Với sự ra đời của Nghị quyết 57, Bộ Chính trị xác định Việt Nam tiến vào giai đoạn mới - giai đoạn phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; từ thu nhập trung bình cao trở thành thu nhập cao. Trong tầm nhìn đó, Bộ KH&CN được xác định có vai trò tiên phong, trụ cột.
Trong hơn sáu tháng dẫn dắt, Bộ trưởng định hình lại ngành Khoa học và Công nghệ Việt Nam với các trụ cột chính xoay quanh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số với mục tiêu: KHCN đóng góp 1% GDP, ĐMST đóng góp 3% và CĐS đóng góp 1% GDP.
Trong vòng bốn tháng sau sáp nhập, 5 luật quan trọng do Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp chỉ đạo đã được Quốc hội thông qua và trở thành nền tảng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số Việt Nam, tạo tiền đề cho thực hiện Nghị quyết 57. Trong năm nay, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục xây dựng thêm 4 luật, gồm: Chuyển đổi số, Công nghệ cao, Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ, hoàn thành các mảnh ghép trong hệ sinh thái khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cho Việt Nam.
"Khoa học công nghệ mà hưng thịnh thì quốc gia mới hưng thịnh. Khoa học công nghệ mà mạnh thì quốc gia mới mạnh. Một quốc gia muốn trở thành cường quốc thì phải là cường quốc khoa học công nghệ.", Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định.
2. Lãnh đạo ngành Bưu chính Viễn thông
Ra đời một năm sau ngày Độc lập, trải qua hơn 10 vị trí lãnh đạo, ngành Bưu chính viễn thông đạt nhiều thành tựu trong cả thời chiến và thời bình.
Tháng 9/1945, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Bưu điện Việt Nam chính thức được tổ chức và quản lý bởi chính quyền cách mạng. Ngay sau đó, ngành vừa xây dựng hệ thống thông tin liên lạc trong hoàn cảnh khó khăn, vừa phục vụ sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Năm 1946, Chính phủ ban hành nhiều văn bản nhằm củng cố và phát triển, mở rộng mạng lưới phục vụ thông tin liên lạc trong nước và quốc tế.
Tháng 3/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ mới thành lập trên cơ sở hợp nhất Bộ Khoa học và Công nghệ với Bộ Thông tin và Truyền thông, cơ bản kế thừa chức năng, nhiệm vụ của hai bộ, trong đó có mảng Bưu chính viễn thông của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính Trần Đăng Khoa

Ông Trần Đăng Khoa. Ảnh: MST
Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính. Ông Trần Đăng Khoa (1906-1989) là Bộ trưởng từ tháng 3/1946 đến 9/1955. Những ngày đầu, nhiệm vụ của Bộ là mở đường giao thông nối liền các tỉnh trong chiến khu, xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc hữu tuyến và vô tuyến, đường thư. Dưới sự lãnh đạo của ông, Bộ đã tổ chức các trạm liên lạc, kết hợp với vận tải thành đường tuyến trong các khu, tỉnh và trên cả nước. Việc giao thông vận tải và bưu điện giữ vai trò quan trọng trong làm cầu, mở đường vận tải tiếp tế cho quân đội bằng mọi loại phương tiện, thông tin.
Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện Nguyễn Văn Trân

Ông Nguyễn Văn Trân. Ảnh: MST
Năm 1955, Chính phủ đổi tên Bộ Giao thông Công chính thành Bộ Giao thông và Bưu điện, do ông Nguyễn Văn Trân (1917-2018) làm Bộ trưởng từ tháng 9/1955 đến 2/1961. Năm 1960, Bộ Giao thông và Bưu điện đổi tên thành Bộ Giao thông vận tải, quản lý Tổng cục Bưu điện.
Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Trần Quang Bình

Ông Trần Quang Bình. Ảnh: MST
Ngày 12/6/1951, Chính phủ quyết định sáp nhập vô tuyến điện hành chính vào ngành bưu điện. Nha Bưu điện đổi thành Nha Bưu điện - Vô tuyến điện Việt Nam, giao cho ông Trần Quang Bình (sinh năm 1915) giữ chức Giám đốc. Ông sau đó giữ vai trò Thứ trưởng Giao thông vận tải và Bưu điện, kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện từ tháng 6/1956 đến 5/1961, và tiếp tục giữ vị trí Tổng cục trưởng đến tháng 7/1976.

Ông Vũ Văn Quý. Ảnh: MST
Trong giai đoạn này, ông Vũ Văn Quý (1920-1995) giữ chức Phó tổng cục trưởng từ năm 1957 đến 1970, sau đó là Quyền Tổng cục trưởng đến năm 1976 và Phó Tổng cục trưởng từ tháng 7/1976 đến 1981.
Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Phạm Niên

Ông Phạm Niên. Ảnh: MST
Từ tháng 7/1976 đến 12/1984, ông Phạm Niên (sinh năm 1924) đảm nhận vai trò Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện. Sau ngày thống nhất đất nước, ông từng bước đưa ngành bưu điện phục hồi, đạt nhiều thành tựu, tạo tiền đề cho bước phát triển của ngành về sau.
Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Đặng Văn Thân

Ông Đặng Văn Thân. Ảnh: MST
Sau khi đảm nhận Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện từ tháng 12/1984, từ đầu năm 1986 đến tháng 6/1990, ông Đặng Văn Thân (1932-2023) giữ vị trí Tổng cục trưởng. Ông sau đó trở thành Tổng giám đốc Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam từ tháng 6/1990 đến 10/1992.
Bộ trưởng Giao thông vận tải và Bưu điện Bùi Danh Lưu

Ông Bùi Danh Lưu. Ảnh: MST
Năm 1990, Bộ Giao thông vận tải hợp nhất với Tổng cục Bưu điện và Cục Hàng không dân dụng, thành Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện. Ông Bùi Danh Lưu (1935-2010) được giao giữ chức Bộ trưởng, lãnh đạo Bộ mới từ tháng 6/1990 đến tháng 10/1992.
Từ sau năm 1987 trở đi là giai đoạn quan trọng của ngành khi mạng viễn thông quốc tế phát triển theo hướng kỹ thuật hiện đại. Đến 1992, ngành bưu điện đã xây dựng và đưa vào ba trạm vệ tinh mặt đất thuộc hệ Intelsat và hai tổng đài điện thoại quốc tế.
Quyền Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Nguyễn Huy Luận

Ông Nguyễn Huy Luận. Ảnh: MST
Năm 1992, ngành bưu điện và ngành hàng không tách khỏi Bộ Giao thông vận tải và Bưu điện. Từ tháng 8/1995 đến 9/1996, ông Nguyễn Huy Luận (sinh năm 1941) là Phó tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện, sau đó trở thành Quyền Tổng cục trưởng từ tháng 10/1996 đến 2/1997; và Phó tổng cục trưởng từ tháng 3/1997 đến 6/2002.
Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Mai Liêm Trực

Ông Mai Liêm Trực. Ảnh: MST
Ông Mai Liêm Trực (sinh năm 1944) đảm nhiệm vai trò Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện từ tháng 3/1997 đến 8/2002, khi đất nước đang trong quá trình đổi mới mạnh mẽ. Ông được đánh giá là một trong những gương mặt quan trọng của ngành Bưu chính viễn thông Việt Nam thời kỳ đổi mới, để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ông cũng kiên định ủng hộ việc sớm mở cửa và đưa Internet vào Việt Nam, trở thành một trong những người có tầm ảnh hưởng nhất tới sự phát triển của Internet trong nước.
Bộ trưởng Bưu chính, Viễn thông Đỗ Trung Tá

Ông Đỗ Trung Tá. Ảnh: MST
Tháng 11/2002, Bộ Bưu chính, Viễn thông được thành lập, là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin. Ông Đỗ Trung Tá (sinh năm 1945) là Bộ trưởng đến tháng 8/2007 sau khi Bộ Thông tin và Truyền thông được thành lập trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Bộ cũ.
Ông Đỗ Trung Tá được đánh giá là vị Bộ trưởng có tư duy đổi mới, gắn với sự bùng nổ Internet, di động và hội nhập quốc tế của Việt Nam đầu thế kỷ 21. Ông góp phần quan trọng định hình khung pháp lý và chính sách đầu tiên cho viễn thông và công nghệ thông tin, phổ cập Internet, xem công nghệ thông tin là động lực phát triển kinh tế xã hội, luôn phải đi trước một bước để phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngoài ra, ông để lại dấu ấn trong việc khai sinh và phát triển mạng di động MobiFone.
Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp

Ông Lê Doãn Hợp. Ảnh: Hoàng Phong
Ông Lê Doãn Hợp (sinh năm 1951) là lãnh đạo Bộ Văn hóa - Thông tin giai đoạn 6/2006-8/2007. Ngày 27/7/2007, Bộ Thông tin và Truyền thông được thành lập trên cơ sở sáp nhập Bộ Bưu chính, Viễn thông và Cục Báo chí, Cục Xuất bản thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin. Ông Lê Doãn Hợp giữ chức Bộ trưởng đến năm 2011.
Là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Thông tin và Truyền thông, ông "đặt viên gạch đầu" cho việc quản lý toàn diện về bưu chính, viễn thông, Internet, công nghệ, báo chí, xuất bản, truyền thông đại chúng. Ông tập trung vào việc vừa mở rộng Internet, viễn thông, truyền hình trả tiền, vừa siết chặt quản lý báo chí, xuất bản, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của thông tin điện tử và mạng xã hội. Ông cũng là người khởi xướng các chương trình gắn công nghệ thông tin với cải cách hành chính, đặt nền móng cho Chính phủ điện tử và sau này là chuyển đổi số.
Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng

Ông Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Lưu Quý
Ông Nguyễn Mạnh Hùng (sinh năm 1962) giữ chức Quyền Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông từ tháng 7/2018 đến 10/2018, sau đó đảm nhiệm vai trò Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông từ tháng 10/2018 đến 2/2025. Trong thời gian này, Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển đổi số toàn diện, 5G, AI, dữ liệu lớn, an ninh mạng trở thành trọng tâm chiến lược quốc gia. Ông đưa ra khẩu hiệu "Make in Vietnam" - sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam, sản xuất tại Việt Nam, thay vì "Made in Vietnam". Tư tưởng này khuyến khích doanh nghiệp công nghệ Việt Nam tự thiết kế và làm chủ sản phẩm, không chỉ gia công.
Bên cạnh đó, ông cũng thúc đẩy phát triển hạ tầng số, chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, coi đây là "cơ hội nghìn năm có một" để Việt Nam bứt phá. Về an ninh mạng và chủ quyền số, ông nhiều lần nhấn mạnh không gian mạng là "không gian sống mới", cũng như đặt trọng tâm đưa lĩnh vực thông tin truyền thông từ quản lý truyền thông truyền thống sang vai trò trụ cột chiến lược trong nền kinh tế số.
Tháng 3/2025, Bộ Khoa học và Công nghệ hợp nhất với Bộ Thông tin và Truyền thông, lấy tên Bộ Khoa học và Công nghệ. Bộ mới được xác định có sứ mệnh quan trọng, đưa Việt Nam vào giai đoạn mới - giai đoạn phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, giai đoạn phát triển từ thu nhập trung bình cao trở thành thu nhập cao.
Theo Bộ KH&CN