Qua đời ở tuổi 89, nhà thiên văn học, GS Nguyễn Quang Riệu đã để lại cho giới thiên văn trong nước và thế giới những phát hiện, công trình nghiên cứu về vật lý thiên văn đồ sộ.
Sinh năm 1932, là người con cả trong một gia đình trung lưu tại Hải Phòng, tuổi thiếu thời, GS Nguyễn Quang Riệu thích được bố mẹ dẫn đến ngọn đồi có Đài thiên văn Phủ Liễn (Kiến An, Hải Phòng) tham quan, sớm đã có niềm đam mê với bầu trời, các chòm sao.
Năm 18 tuổi, ông sang Pháp theo học tại Đại học Sorbonne (Pháp). Trong thời gian du học, gia đình khuyến khích ông theo ngành hóa học để sau này chế ra phim và giấy ảnh phục vụ cho nghề truyền thống của dòng họ. Nhưng niềm hăng say chụp chân dung các vì sao thôi thúc ông đi theo con đường nghiên cứu thiên văn học. Sau đó, ông ở lại nghiên cứu thiên văn tại Đài Thiên văn Paris. Ông lấy bằng Tiến sĩ và làm Giáo sư tại Đại học Sorbonne, theo Wikipedia.
Năm 1972 đã xảy ra một vụ nổ từ hướng thiên thể Cygnus X3 trong chòm sao Thiên Nga. Thiên thể Cygnus X3 khi nổ đã phát ra bức xạ vô tuyến rất mạnh. Vụ nổ được các nhà khoa học xác định xảy ra trên bầu trời, nhưng chưa rõ ở trong hay ngoài dải Ngân Hà. Hiện tượng hiếm có này được giới thiên văn toàn cầu tập trung theo dõi.
GS Riệu là một trong những nhà thiên văn đầu tiên trên thế giới theo sát diễn biến để kiểm chứng vụ nổ. Ông sử dụng chiếc kính thiên văn vô tuyến khổng lồ của Đài Thiên văn Paris để xác định khoảng cách từ vị trí vụ nổ đến Trái Đất. Kết quả quan sát là vụ nổ trong một thiên thể ở rìa dải Ngân Hà, với khoảng cách chính xác là 30.000 năm ánh sáng, theo Nature.
Một số nhà thiên văn Mỹ khi đó xác định khoảng cách chỉ 15.000 năm ánh sáng. Sau khi được các hội đồng, tổ chức đánh giá, kết quả của GS Riệu được công nhận là chính xác nhất.
Phát hiện quan trọng này đã được tạp chí khoa học nổi tiếng Nature dành trọn một số để nói về. Năm 1973, GS Riệu được Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trao tặng Giải thưởng Janssen trong lĩnh vực vật lý thiên văn. Nhiều đài thiên văn và trường đại học trên thế giới mời ông đến thuyết giảng sau sự kiện đó.
Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như Giám đốc Nghiên cứu Danh dự của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp và Đài Thiên văn Pairs, thành viên Hội Thiên Văn Quốc tế (IAU), thành viên Ủy ban Quốc tế thực hiện đề án của Cơ quan Vũ trụ châu âu (ESA). Trong nghiên cứu, GS Riệu công bố 150 công trình khoa học về vật lý thiên văn, thiên văn vô tuyến.
Thành công trên trường quốc tế nhưng ông vẫn luôn đau đáu hướng về quê nhà, muốn trở về Việt Nam phổ biến kiến thức khoa học và lan toả niềm đam mê thiên văn tới lớp trẻ. Từ năm 1976, ông thường xuyên về nước phát triển và phổ biến ngành vật lý thiên văn và vật lý môi trường, hai lĩnh vực nghiên cứu còn non trẻ ở Việt Nam thời điểm đó.
Thời điểm diễn ra hiện tượng nhật thực toàn phần ngày 25/10/1995 tại Việt Nam, GS Riệu được Bộ Ngoại giao Pháp cấp kinh phí để xây và mua thiết bị thiên văn mang về Việt Nam. Ông đề nghị để lại thiết bị tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Đài Thiên văn Phù Liễn, giúp sinh viên thực tập quan sát bầu trời.
Các hội thảo trong nước về thiên văn khi đó được tổ chức nhiều hơn, với mục đích giải thích các hiện tượng vũ trụ, những thành tựu mới đạt được trong ngành thiên văn. Mỗi năm, GS Riệu đều dành thời gian về nước tổ chức lớp học về vật lý vũ trụ, vật lý môi trường, vận động nhiều nhà khoa học nước ngoài cùng về thỉnh giảng.
Ông cũng là người đứng ra xin tài trợ học bổng của Chính phủ Pháp cho sinh viên Việt Nam và hướng dẫn làm luận án tiến sĩ ngành vật lý thiên văn tại Pháp.
Với mục tiêu phổ biến khoa học cho người Việt, ông đã viết nhiều cuốn sách giải mã về bí ẩn vũ trụ với nội dung dễ hiểu bằng tiếng Việt, khơi dậy niềm đam mê thiên văn vũ trụ cho thế hệ trẻ Việt, như "Vũ trụ phòng thí nghiệm", "Lang thang trên dải Ngân Hà", "Buổi trời tuổi thơ", "Sông Ngân khi mờ khi tỏ"... Ngoài ra, ông còn tham gia soạn giáo trình chuyên ngành thiên văn vật lý song ngữ Việt - Anh dành cho sinh viên trong nước.
Với những đóng góp ý nghĩa cho nền khoa học tại quê nhà, ông đã được trao tặng Giải thưởng Vinh danh nước Việt (2004) và Kỷ niệm chương của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006).