- Ông nghĩ gì về việc 20 cán bộ y tế Thanh Hóa dùng bằng giả, trong đó có nhiều cán bộ công chức tại bệnh viện tuyến tỉnh và trực tiếp khám bệnh?
- Thực tế cho thấy, kiểu học nào cũng có bằng giả để phục vụ cho người không thực học, thậm chí không học. Do chúng ta coi bằng cấp có vị trí ngang nhau, và việc học các hình thức không chính quy có phần dễ dãi nên số người mua bằng giả ở hệ tại chức, chuyên tu hoặc từ xa thường nhiều hơn. Nhưng không phải mọi bằng chính quy đều là bằng thật, vì người có nhu cầu vẫn có thể mua.
Bằng giả trong lĩnh vực y tế rất nguy hiểm. Bởi để hành nghề trong lĩnh vực này, người làm cần được đào tạo bài bản từ lý thuyết đến thực tiễn. Sinh mạng người bệnh được gửi gắm nhiều khi chỉ là một bác sĩ, y sĩ. Nếu không có chuyên môn, hoặc chuyên môn yếu thì sẽ nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng người khác.
Tôi cho rằng không chỉ Thanh Hóa mới có hiện tượng trên mà chắc chắn còn nhiều người đang "nhởn nhơ" ở các lĩnh vực khác. Bằng giả trà trộn vào công vụ làm cho chất lượng cả hệ thống yếu đi.
- Cán bộ y tế ở Thanh Hóa sử dụng bằng giả hàng chục năm, nhưng đến nay mới bị phát hiện. Vì sao việc sử dụng bằng giả lại diễn ra trong thời gian dài như vậy?
- Chuyện này hoàn toàn có thể xảy ra, vì nền công vụ của chúng ta là "sáng cắp ô đi, tối cắp ô về", giao việc thì chung chung. Người có bằng giả hơn ai hết ý thức được khả năng của họ thế nào, vậy nên nếu gặp lĩnh vực khó khăn hay phức tạp họ có thể tìm lý do né tránh…
Hơn nữa tùy công việc công vụ mà xét trách nhiệm dễ hay khó. Người bảo vệ một ca trực, mất cái gì thì biết ngay. Còn bệnh viện là một tổ hợp, người yếu chuyên môn đã có cách để cho người khỏe bù vào, vì thế có nhiều cách né tránh hơn. Yếu thì làm sao dám đứng mũi chịu sào? Tôi chưa thấy tình huống nào sai phạm trong điều trị, từ đó mà phát hiện là do bác sĩ có bằng giả phụ trách ca đó. Họ đã thoát đầu vào thì chỉ khi thanh tra hay khiếu kiện mới phát hiện được.
- Đây không phải lần đầu tiên bằng giả được phát hiện trong cơ quan nhà nước. Vậy theo ông, nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng này?
- Việt Nam đang lẫn lộn xã hội học tập và bằng cấp của học tập. Xã hội học tập tức là quan điểm của Đảng, Nhà nước tạo điều kiện cho ai cũng được học hành và ai muốn học thì có thể học suốt đời, bằng mọi hình thức. Đó là quan điểm rất tiến bộ, nhưng thực tế bằng cấp mỗi dạng được đào tạo có quy trình khác nhau. Trong đó quy trình đào tạo chính quy là cơ bản chuẩn mực và rất khó để "ăn bớt, xén". Còn đã chuyển sang hệ tại chức, từ xa… thì lại có điều kiện dễ dãi hơn.
Trong tuyển dụng, chúng ta thường ràng buộc có bằng cấp mới có việc làm nên một số người liều lĩnh mua bằng "giả 100%" để vào cơ quan hay tổ chức. Chúng ta cũng nhấn mạnh đến hình thức mà không chú ý đến chất lượng của bằng cấp. Gần đây mới có thêm những bài kiểm tra khác như phỏng vấn để tăng một phần chất lượng đầu vào.
Bên cạnh đó, do không chú ý đến thiết kế tổ chức, nhu cầu học vấn, trình độ của từng công việc nên đang có hiện tượng "đại học hóa" trong một tổ chức. Ví dụ một phòng kế toán có nhất thiết phải toàn là cử nhân không? Do chế độ lương đi với bằng cấp nên rất nhiều vị trí nhà nước phải trả lương cho người có bằng đại học, nhưng việc của họ thì chỉ cần người trung cấp thôi.
Không ai cấm học cao, nhưng học rồi thì phải làm việc đòi hỏi khó và phức tạp hơn thì thu nhập sẽ cao hơn. Nhân viên văn thư đóng dấu thì chỉ cần trình độ trung cấp là đủ, nhưng họ muốn học thêm đại học để có mức thu nhập cao thì không phù hợp cả công việc và nhu cầu thăng tiến ở vị trí đó. Đó là sự lãng phí.
Hai cán bộ ở bệnh viện Đa khoa Thanh Hóa bị phát hiện dùng bằng giả. Ảnh: Lê Hoàng. |
- Nhiều ý kiến cho rằng, hiện tượng bằng giả chỉ có thể ‘chui’ vào hệ thống công chức nhà nước, chứ không thể vào được doanh nghiệp tư nhân. Quan điểm của ông thế nào?
- Không ai chê bằng cấp, nhưng ở Việt Nam bằng cấp đang trở thành yếu tố quan trọng để xin việc và thăng tiến. Với doanh nghiệp tư nhân, việc tuyển dụng nhân viên gắn với lợi ích của người chủ và doanh nghiệp, nên khi tuyển người ta chỉ tuyển người vào chỗ họ đang thiếu và có thể đảm nhiệm được. Vì vậy bằng cấp chỉ là một yêu cầu, còn phỏng vấn, thử việc, cam kết trong hợp đồng… Làm sao người có bằng giả dám thi vào đó, kể cả ngẫu nhiên mà đỗ?
Đó là chưa nói đến quyền tự chủ, tính năng động của khu vực tư. Họ coi trọng bằng cấp, nhưng họ cũng không chê người có bằng cấp thấp mà khả năng làm việc, ứng xử các mặt nhanh nhẹn, hiệu quả. Nhà nước thì làm gì có quyền cắt lương vì chất lượng công việc không đảm bảo, nhất là lại đụng chạm đến "hậu duệ" chẳng hạn? Chưa nói thủ tục hiện nay không đặt quyền và trách nhiệm tương thích ở người đứng đầu.
- Làm thế nào để ngăn chặn tình trạng bằng giả, thưa ông?
- Nếu muốn triệt tiêu bằng giả do mua, do chất lượng đào tạo và quản lý thì cần vai trò của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Công nghệ thông tin ngày nay có thể lưu trữ nhiều thông tin của một cá nhân. Vậy tại sao Bộ Giáo dục lại không có phần mềm buộc các trường phải thể hiện một người tốt nghiệp ra trường thì phải có thông tin cơ bản: ngày tháng năm sinh, quê quán, đặc điểm nhận dạng, tốt nghiệp ở đâu và học khóa nào để các nhà tuyển dụng chỉ cần lên mạng là kiểm tra, hoặc hỏi trực tiếp nơi đào tạo là được. Nếu cần thì trả phí trả lời về hồ sơ. Với hệ thống này nhà tuyển dụng sẽ truy tới cùng nếu phát hiện bằng giả.
Ngoài ra, theo tôi phải có yêu cầu người nào sau này phát hiện có bằng giả phải bị hồi tố trách nhiệm cả về kinh tế và chính trị ngay từ khi được tuyển dụng.
Hương Thu