Trong Thế chiến II, phát xít Đức áp dụng học thuyết chiến tranh tổng lực, không tuân theo các quy tắc giao chiến thông thường. Họ tuyên bố áp dụng chiến tranh tàu ngầm không hạn chế, tấn công cả tàu thương mại và vận tải của Đồng minh tiếp tế hậu cần cho Anh, theo War History.
Tàu ngầm Đức thoải mái hoạt động trong giai đoạn 1940-1941, khi tàu Đồng minh thiếu radar và thiết bị dò tìm cao tần, không thể phát hiện tàu ngầm Đức nổi lên và tấn công bằng hải pháo vào ban đêm.
Những chiếc tàu ngầm màu đen lẫn trong màn đêm của Đức trở thành nỗi kinh hoàng cho thủy thủ trên tàu Đồng minh. Người Đức gọi giai đoạn này là "thời gian vui sướng", vì họ có thể thoải mái đánh đắm tàu đối phương mà không bị thương vong.
Đến tháng 12/1941, Karl Donitz, tư lệnh lực lượng tàu ngầm phát xít Đức, phát động chiến dịch Drumbeat quấy rối tàu di chuyển dọc bờ biển Bắc Mỹ. Đức triển khai ba tàu ngầm Type IX tầm xa đến vùng biển ngoài khơi nước Mỹ. Chúng nhận lệnh lặn sâu ban ngày và phục kích tàu buôn trong đêm. Tình báo Anh phát hiện nhóm tàu ngầm từ cảng Lorient, Pháp, sau đó thông báo cho hải quân Canada và Mỹ.
Dựa vào kinh nghiệm trong giai đoạn đầu Thế chiến II, Anh gợi ý Mỹ áp dụng một số biện pháp phòng ngừa tàu ngầm Đức. Hải quân Anh cho rằng tất cả thành phố ven biển Mỹ nên duy trì tình trạng cắt điện suốt đêm. Bên cạnh đó, các tàu nên di chuyển theo đoàn, tắt hết đèn định vị hàng hải, vì chúng có thể giúp đối phương phát hiện mục tiêu. Ngoài ra, họ cũng khuyến cáo hải quân và không quân Mỹ tiến hành tuần tra bờ biển, hạn chế khả năng di chuyển tự do của tàu ngầm Đức.
Nhưng lực lượng phòng vệ bờ biển Mỹ không nghe theo lời khuyên này một cách nghiêm túc trong vài tháng từ sau khi Mỹ tham chiến. Bộ chỉ huy mặt trận biển phía đông Mỹ tin rằng tàu vận tải an toàn hơn khi di chuyển đơn độc. Lệnh tắt nguồn sáng không được đưa ra, mà chỉ có các thông báo tới cộng đồng ven biển, không bao gồm các thành phố lớn như New York.
Lực lượng này cũng không được trang bị vũ khí chống ngầm hiệu quả. Họ chỉ sở hữu một số tàu pháo từ năm 1905, một vài tàu tuần tra cổ lỗ đời 1919, 4 thuyền buồm hoán cải. Phương tiện duy nhất có khả năng chống tàu ngầm Đức duy nhất của họ là 7 tàu tuần tra bảo vệ bờ biển.
Cuộc tấn công đầu tiên diễn ra ngày 14/1/1942, khi tàu ngầm U-123 Đức đánh đắm tàu chở dầu của Na Uy và Anh. Trong đợt đầu tiên của chiến dịch Drumbeat, Đức đã đánh đắm 23 tàu, khiến quân Đồng minh mất khoảng 100.000 tấn hàng hóa và hàng trăm binh sĩ. Báo cáo của hải quân Đức cho biết các con tàu hoàn toàn có thể được nhìn thấy nhờ ánh sáng từ phía bờ, tạo điều kiện cho tàu ngầm nhận dạng mục tiêu.
Sau thành công ban đầu, Donitz ra lệnh tấn công lần hai, với sự tham gia của tàu ngầm hạng trung. Họ thậm chí đã sử dụng bể chứa nước ngọt trên tàu ngầm để đựng dầu diesel nhằm kéo dài thời gian hoạt động cho tàu. Tham vọng của Donitz là đánh đắm thêm nhiều tàu hơn nữa. Người Đức gọi chiến dịch này là "thời gian vui vẻ thứ hai", hay mùa săn tàu Mỹ.
Mỹ quá tập trung vào cuộc chiến với người Nhật hòng trả thù cho trận Trân Châu Cảng, nên lơ là ở ngay trên sân nhà. Trước cái giá phải trả quá đắt, Mỹ bắt đầu chú trọng đối phó với tàu ngầm Đức.
Cho tới tháng 4/1942, tình hình bắt đầu thay đổi. Các thành phố ven biển bắt đầu tắt điện vào ban đêm, trong khi tàu chở hàng chỉ di chuyển ban ngày với lực lượng hộ tống vũ trang. U-85 trở thành tàu ngầm Đức đầu tiên bị đánh đắm bởi hải quân Mỹ.
Biện pháp này làm giảm tổn thất cho tàu Đồng minh ngay lập tức. Thủy sư đô đốc Donitz buộc phải rút tàu ngầm để tìm kiếm mục tiêu dễ tấn công hơn. Quân Đồng minh phá hủy 9 tàu ngầm Đức trong năm 1942, khiến Donitz phải cân nhắc về việc đi săn, nhất là khi "con mồi" không còn bất lực như trước. Tháng 8/1942, "thời gian vui vẻ thứ hai" của phát xít Đức kết thúc.
Giai đoạn này được các nhà sử học gọi là "Trân Châu Cảng thứ hai". Hàng nghìn lính đã thiệt mạng vì sự không cẩn trọng, đánh giá thấp đối phương của Mỹ. Tổng cộng có 609 tàu bị đánh đắm, hơn 3,1 triệu tấn hàng hóa chìm dưới Đại Tây Dương, thay vì đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của Anh.
Hòa Việt