- Ông đánh giá như thế nào về quan hệ Việt - Trung trong năm qua?
- Năm 2014 ghi một dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam và Trung Quốc. Việc Trung Quốc đơn phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đã khiến quan hệ hai nước rơi vào một "vùng trũng" thấp nhất kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991.
Mặc dù hai nước đều có những nỗ lực nhất định nhằm đưa quan hệ trở lại bình thường, chẳng hạn như tiếp tục trao đổi các đoàn cấp cao, nhưng tính chất và đặc điểm của mối quan hệ đã có sự thay đổi về chất sau sự cố giàn khoan.
Một sự đồng thuận rộng lớn hơn đã hình thành ở Việt Nam về ý đồ, mục tiêu và quyết tâm của Trung Quốc ở Biển Đông. Sau sự kiện giàn khoan, không còn nhiều người mơ hồ về mong muốn và hành vi của Trung Quốc ở khu vực.
Trung Quốc đã theo đuổi một chiến lược lớn khá nhất quán và bài bản từ nhiều thập kỷ qua. Chiến lược xuyên suốt của Trung Quốc ở Biển Đông giống như chiến lược của một người chơi cờ vây với mục tiêu cuối cùng là giành quyền kiểm soát toàn bộ khu vực với những bước đi có tầm nhìn xa nhiều thập kỷ, còn việc động thủ hay thúc thủ phần nhiều được quyết định bởi thời thế và tương quan lực lượng.
Sự kiện giàn khoan không tạo ra một xu hướng mới. Nó chỉ đánh dấu sự biến đổi từ lượng thành chất của một quá trình đã tích tụ từ lâu.
- Việt Nam nên ứng xử như thế nào trước sự thay đổi này?
- Sự kiện này giống như một "cú huých" buộc Việt Nam phải xem lại mối quan hệ và cách xử sự với Trung Quốc. Tuy nhiên, bài toán quan hệ với Trung Quốc không dễ gì có thể giải quyết được trong chốc lát. Nó cần sự nhìn nhận sâu sắc từ nhiều góc độ như lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị, quân sự và nhất là đại chiến lược.
Vấn đề của Việt Nam là làm sao thoát khỏi vòng kiềm tỏa của Trung Quốc nhưng vẫn tận dụng được lợi thế lân cận với họ. Trung Quốc là một trung tâm văn hóa, kinh tế mà ảnh hưởng của nó có nhiều khía cạnh tích cực đi kèm với các khía cạnh tiêu cực. Việt Nam cần cự tuyệt sự lệ thuộc, nhưng phải biết cách tận dụng lợi thế ở gần để khai thác tốt mối liên hệ lâu dài với Trung Quốc và vị trí chiến lược bên cạnh nước này, khai thác tốt nền minh triết và thị trường rộng lớn của Trung Quốc.
Việt Nam cần tìm ra cách ứng xử hợp lý để có thể được nể phục bên cạnh một Trung Quốc khổng lồ. Làm sao để kinh tế thông thương mà không lệ thuộc, hợp tác nhiều mặt trong thế ngẩng cao đầu, học được cái hay của Trung Quốc mà không vấp phải những cái dở của họ, giảm thiểu những thiệt hại do phải đương đầu với những áp lực, trả đũa, và gây hấn của Trung Quốc, trong khi vẫn bảo toàn được những lợi ích căn bản của mình.
Hiện nay những bước đi của một Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn, đặt ra thách thức mới cho cả hai nước đi tìm một giải pháp lâu dài cho mối quan hệ song phương.
- Việt Nam và Trung Quốc được gì, mất gì từ sự kiện giàn khoan?
- Nếu chỉ xét về khía cạnh vật chất thì cả hai nước đều mất chứ không được gì. Trung Quốc định đưa giàn khoan vào để cắm "một cột mốc biên giới" nhưng bị Việt Nam chống trả quyết liệt và bị thế giới lên án. Như vậy là mục tiêu "cắm mốc" của Trung Quốc coi như thất bại.
Bắc Kinh tuyên bố giàn khoan đã tìm thấy dầu, nhưng những gì được quan sát ở hiện trường cho thấy giàn khoan chưa thể khoan sâu xuống đáy biển chứ chưa nói đến chuyện có tìm thấy dầu hay không.
Trong khi đó, cả hai bên đều thiệt hại nhiều tiền của để duy trì một lượng lớn tàu. Số lượng của Trung Quốc có lúc lên tới hơn trăm tàu, liên tục quần thảo, đâm va tàu Việt Nam trong suốt hai tháng rưỡi trên biển.
Tuy nhiên nếu xét về khía cạnh phi vật chất thì có thể nói Trung Quốc mất nhiều hơn và Việt Nam được nhiều hơn. Cái Trung Quốc mất nhiều nhất là niềm tin của các nước về một Trung Quốc "chơi được". Không chỉ Việt Nam mà nhiều nước khác trong khu vực và trên thế giới trở nên bớt tin tưởng và cảnh giác hơn với Trung Quốc.
Việt Nam nhìn chung tạo được hình ảnh một quốc gia kiên cường, khôn ngoan và biết kiềm chế. Việt Nam được nhiều nước, nhất là Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines coi là địa chỉ đáng tin cậy để gìn giữ hòa bình, ổn định trong khu vực. Tuy nhiên, các vụ bạo động đã diễn ra cũng làm sứt mẻ hình ảnh của Việt Nam.
- Theo ông những yếu tố nào tác động lớn đến quan hệ Việt - Trung năm tới?
- Có 4 yếu tố chính sẽ tác động mạnh đến quan hệ hai nước. Thứ nhất, Trung Quốc tiếp tục tăng cường lấn biển, xây đảo và lập căn cứ trên các bãi đá mà họ chiếm đóng ở Biển Đông, đặc biệt là ở quần đảo Trường Sa. Năm 2015, Bắc Kinh sẽ biến đá Chữ Thập thành mặt bằng lớn nhất ở quần đảo Trường Sa, với đường băng dài khoảng 3 km, đủ cho máy bay chiến đấu và máy bay ném bom thế hệ thứ 4 sử dụng, có cảng biển cho tàu chiến hạng trung và tàu tuần tra cỡ lớn trọng tải 5.000 tấn neo đậu. Ngoài ra, Trung Quốc cũng tiếp tục các hoạt động xây dựng ở các đá Gạc Ma, Gaven, Tư Nghĩa và có thể sẽ triển khai cả ở đá Subi. Việt Nam sẽ phải có đối sách thích hợp nếu không muốn chấp nhận một cán cân lực lượng mới nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.
Yếu tố thứ hai là Trung Quốc sẽ tiếp tục lấn lướt ở Biển Đông. Nước này có thể đưa trang thiết bị ra hạ đặt ở các vị trí chiến lược, các bãi đá không người, để từ đó chiếm đóng trên thực tế. Bắc Kinh sẽ tổ chức tập trận quân sự, đưa các lực lượng dân sự và phi quân sự ra để hình thành thế trận "chiến tranh nhân dân trên biển". Họ cũng đưa tàu bè, các phương tiện khác như ụ nổi, giàn khoan ra khống chế mặt biển; lập ra các quy định, quy chế đơn phương nhằm giành quyền kiểm soát cả vùng biển và vùng trời của khu vực.
Yếu tố thứ ba là ảnh hưởng của vụ kiện Trung Quốc tại Tòa Trọng tài quốc tế về Luật biển do Philippines khởi xướng. Ngày 15/12 vừa qua là hạn chót để Trung Quốc thể hiện lập trường trước tòa, Trung Quốc đã đưa ra một văn kiện tái khẳng định yêu sách của họ ở Biển Đông, lên án Philippines bác bỏ thẩm quyền của tòa trong vụ kiện. Hiện Việt Nam đã nêu lập trường kiên quyết bác bỏ yêu sách của Trung Quốc, và Bắc Kinh cũng bác ngược lại. Trong năm sau, căng thẳng sẽ tiếp tục gia tăng, nhất là càng đến gần ngày tòa ra phán quyết.
Cuối cùng là tác động của việc Việt Nam tiếp tục tăng cường quan hệ với các nước lớn trong khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ. Đây là điều cần thiết để Việt Nam giảm lệ thuộc vào một nước trong bối cảnh các nước nói trên đều ủng hộ Việt Nam trong vấn đề Biển Đông. Điều này sẽ khiến Trung Quốc không hài lòng và sẽ tăng cường các biện pháp ngăn cản.
Việt Anh (thực hiện)