Dư luận có nhiều ý kiến trái chiều khi Đại học Tôn Đức Thắng muốn có quyền bổ nhiệm giáo sư. Điều này dễ hiểu vì ở Việt Nam, việc một trường đại học bổ nhiệm giáo sư vẫn còn rất mới và gây nhiều lo ngại. Nhưng ở nước ngoài, như Australia chẳng hạn, các trường đại học có chính sách và tiêu chuẩn bổ nhiệm giáo sư từ lâu. Trong bài này tôi muốn trình bày một vài kinh nghiệm từ Australia để tham khảo và hy vọng góp phần nâng cao sự hội nhập quốc tế của ngành giáo dục nước ta.
Các đại học ở Australia có 4 chức danh khoa bảng: lecturer (giảng viên), senior lecturer (giảng viên cao cấp), associate professor (phó giáo sư ) và professor (giáo sư). Nhưng ở các đại học Mỹ có 3 chức danh professor: đó là assistant professor, associate professor, và professor. Chữ assistant professor rất khó dịch sang tiếng Việt, vì tuy mang danh là “assistant professor” (phụ trợ) nhưng những người có chức danh này chẳng phụ tá cho ai cả mà đã là một nhà nghiên cứu độc lập. Ở cả hai hệ thống, professor là chức danh cao nhất trong hệ thống học hàm đại học. Ở Australia cũng như ở Mỹ, giáo sư là một chức vụ (position), chứ không phải chức danh hay phẩm hàm theo cách hiểu ở Việt Nam.
Không như ở Việt Nam chỉ có những tiêu chuẩn chung chung, các trường đại học ở Australia và Mỹ đề bạt chức danh này dựa theo ngạch và dựa vào những tiêu chí cụ thể, tiêu chuẩn rất khác nhau. Trong bài này tôi chỉ bàn về hai chức danh phó giáo sư và giáo sư, và sẽ gọi chung là “giáo sư”.
Quy trình
Quy trình đề bạt nói chung khá đơn giản, và theo đúng nguyên lý cơ bản của hoạt động khoa học, đó là bình duyệt (peer review). Có thể tóm gọn trong 3 bước chính, đầu tiên là đệ đơn (nộp hồ sơ xin đề bạt), sau đó là bình duyệt, và sau cùng là phỏng vấn ứng viên.
Ứng viên phải soạn một đơn xin đề bạt. Trong đơn này, ứng viên phải giải trình thành tích khoa học của mình một cách cụ thể dựa theo những tiêu chuẩn trên. Cụ thể ở đây có nghĩa là phải trình bày những số liệu, biểu đồ, phân tích nhằm thuyết phục hội đồng khoa bảng rằng ứng viên đạt tiêu chuẩn của một giáo sư. Một điều rất quan trọng là ứng viên phải chỉ ra cho được mình tương đương với ai trên thế giới. Nếu ứng viên xin đề bạt chức danh giáo sư thì phải chỉ ra cho được mình đã tương đương với người đã được công nhận chức danh giáo sư trên thế giới.
Bình duyệt đơn được thực hiện qua 2 phía: cá nhân và đại học. Về phía cá nhân, ứng viên có quyền chọn 4 người bình duyệt (referee) cho đơn mình, và trường đại học có trách nhiệm phải gửi hồ sơ đến 4 người bình duyệt này. Bốn người này có thể là đồng nghiệp của ứng viên, và cũng có thể là người nước ngoài hay ngoài trường đại học. Về phía đại học, họ cũng đề cử 4-6 người bình duyệt do trường chọn. Dựa vào danh sách này, hội đồng khoa bảng sẽ chọn 2 hoặc 3 người bình duyệt hồ sơ. Ứng viên không biết hội đồng sẽ chọn ai trong danh sách. Phần lớn trường hợp, hội đồng chỉ chọn các nhà khoa học ngoài trường và một số từ nước ngoài, chứ ít khi nào chọn người trong trường.
Mỗi người bình duyệt sẽ viết một báo cáo đánh giá ứng viên dựa vào các tiêu chí (nghiên cứu khoa học, giảng dạy, lãnh đạo, phục vụ) và tiêu chuẩn (trung bình, giỏi, xuất sắc, nổi trội) mà trường đại học đưa ra. Một trong những điểm mà trường yêu cầu người bình duyệt phải chỉ ra cho được là ứng viên tương đương với ai (cụ thể là những giáo sư nào, tên tuổi, ở đâu, địa chỉ) trong ngành trên thế giới. Đây cũng là cách trường muốn kiểm tra và so sánh thêm về thành tích khoa học của ứng viên. Đến phần cuối của báo cáo bình duyệt, hội đồng khoa bảng yêu cầu người bình duyệt phải xếp hạng ứng viên vào hạng mấy trên thế giới (chuyên ngành): top 1%, 5% 10%, hay 20%.
Sau khi nhận được các báo cáo này, hội đồng khoa bảng sẽ tổ chức một buổi phỏng vấn ứng viên. Sau khi phỏng vấn, họ sẽ viết một đề nghị lên hiệu trưởng đại học để chính thức công bố kết quả. Nếu thất bại (không được đề bạt), ứng viên có quyền khiếu nại và yêu cầu đánh giá lại. Trong trường hợp này (hiếm xảy ra), hội đồng khoa bảng sẽ chuyển hồ sơ của ứng viên đến một hội đồng khác mà trong thực tế là một hội đồng khoa bảng mới để xem xét hồ sơ.
Ngạch đề bạt
Ở Australia, các đại học đề bạt giáo sư theo hai ngạch: nghiên cứu khoa học (research) và giảng dạy (teaching). Ứng viên phải chọn ngạch mà mình muốn đề bạt. Chẳng hạn công việc của ứng viên phần lớn là nghiên cứu khoa học và ít giảng dạy, nên chỉ có thể chọn ngạch nghiên cứu; nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là giảng dạy thì chắc chắn không đủ tiêu chuẩn để được đề bạt chức danh giáo sư.
Tiêu chí
Bất kể chọn ngạch nghiên cứu hay giảng dạy, ứng viên sẽ được xét dựa vào 4 tiêu chí như sau: thành tựu nghiên cứu khoa học (research output), lãnh đạo (leadership), giảng dạy (teaching), và phục vụ (services). Tất nhiên, nếu ứng viên chọn ngạch nghiên cứu thì hội đồng khoa bảng sẽ đặt nặng tiêu chí nghiên cứu hơn là 3 tiêu chí kia. Tương tự, nếu ứng viên chọn ngạch giảng dạy, ngoài thành tích giảng dạy, hội đồng khoa bảng vẫn phải xem xét đến thành tựu nghiên cứu của ứng viên chứ không phải chỉ một tiêu chí.
Điều này có nghĩa là một giáo sư phải đáp ứng tất cả 4 tiêu chí, nhưng tiêu chuẩn thì khác nhau cho từng tiêu chí mà ứng viên chọn ngạch được đề bạt, không có ngoại lệ. Không phải chỉ công bố một công trình tuyệt vời nào đó là tự động được chức danh giáo sư. Ở Australia và Mỹ, tôi biết nhiều người trẻ có những công trình trên những tập san danh tiếng như Science, Nature, Cell… nhưng vẫn chưa được đề bạt giáo sư. Điều này dễ hiểu vì để được đề bạt chức danh giáo sư thì ứng viên phải đáp ứng 4 tiêu chí mà họ chọn.
Nghiên cứu khoa học ở đây bao gồm số lượng và chất lượng công trình nghiên cứu đã công bố trên tập san quốc tế. Ngoài ra, các bằng sáng chế (patents) cũng được xếp trong tiêu chí này. Hội đồng khoa bảng dựa vào những chỉ số như hệ số ảnh hưởng (impact factor, IF) của tập san và chỉ số H (còn gọi là chỉ số Hirsch, hay H index) của cá nhân ứng viên. Không có con số cụ thể về IF để đánh giá chất lượng cao hay thấp, bởi vì IF quá tùy thuộc vào từng bộ môn khoa học, nhưng nói chung, hội đồng chú ý đến những bài báo được công bố trên những tập san hàng đầu trong chuyên ngành. Chỉ số H rất quan trọng, vì quyết định một phần sự thành bại của ứng viên. Các trường đại học danh tiếng và lớn bên Mỹ thường đòi hỏi ứng viên phải có chỉ số H tối thiểu là 15 (thường là 20) để được đề bạt chức danh professor.
Không có ngưỡng cụ thể về số bằng sáng chế bao nhiêu để đề bạt, nhưng hội đồng khoa bảng rất chú ý đến những nghiên cứu làm thay đổi định hướng của chuyên ngành, những nghiên cứu mở ra một hướng đi mới cho khoa học, những nghiên cứu mà kết quả được ứng dụng rộng rãi và đem lại lợi ích cho người bệnh cũng như công chúng.
Ngoài ra, số lượng công trình mà ứng viên chủ trì và giá trị tài trợ mà ứng viên thu hút từ các nguồn khác nhau cũng được xem là một chỉ tiêu về thành tựu nghiên cứu. Theo một quy ước bất thành văn, ở cấp giáo sư (ngành khoa học thực nghiệm), người ta kỳ vọng ứng viên phải thu hút trên 2 triệu USD cho nghiên cứu.
Giảng dạy và đào tạo (teaching and mentorship) là những chỉ tiêu về số course học mà ứng viên thiết kế và giảng dạy. Ứng viên phải trình bày rất chi tiết về số sinh viên, đánh giá của sinh viên ra sao, và thành tựu trong giảng dạy. Tôi từng thấy có ứng viên đem cả băng video và DVD để chứng minh khả năng giảng dạy của mình cho hội đồng khoa bảng xem xét.
Đối với các ứng viên chọn ngạch nghiên cứu thì giảng dạy chính là số sinh viên cấp thạc sĩ và tiến sĩ họ đã hướng dẫn thành công. Những sinh viên này hiện giờ ở đâu, làm gì, thành đạt gì trong sự nghiệp. Ngoài ra, ứng viên còn phải trình bày số nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ (postdoc) đến “đầu quân” làm việc cho nhóm của mình, và sự nghiệp của các postdoc này hiện nay như thế nào. Trong phần này, ứng viên cũng có thể viết về những khóa học ngắn hạn hay những seminar mang tính giáo dục cho đồng nghiệp mà ứng viên đã thực hiện.
Lãnh đạo không phải là lãnh đạo hành chính, mà là đi đầu trong một lĩnh vực nghiên cứu. Không có những thước đo cụ thể về tiêu chuẩn này, nhưng những “tín hiệu” sau đây được xem là liên quan đến “lãnh đạo”: được mời viết xã luận (editorial), bình luận (commentary), bài tổng quan (invited review), được mời thuyết giảng trong các hội nghị lớn tầm quốc tế (còn gọi là invited lecture, keynote lecture…) mà ban tổ chức tài trợ hoàn toàn, được mời tham gia soạn thảo chương trình khoa học cho hội nghị, đóng vai trò chủ tọa hội nghị…
Phục vụ ở đây là phục vụ cho chuyên ngành và cộng đồng. Hội đồng thường xem xét đến những đóng góp cho các tập san khoa học trong vai trò phản biện, bình duyệt (referee hay reviewer), hay cao hơn là được mời làm thành viên của ban biên tập cho tập san, hoặc cao hơn là đóng vai trò tổng biên tập và phó biên tập của các tập san khoa học quốc tế. Phục vụ trong các hiệp hội khoa học cũng được xem là một chỉ tiêu quan trọng. Ngoài ra, hội đồng cũng xét duyệt đến những cống hiến bình duyệt đơn xin tài trợ, tham gia bình duyệt luận án tiến sĩ cho các đại học nước ngoài, tham gia bình duyệt đơn xin đề bạt của đồng nghiệp nước ngoài. Đó là những “chỉ tiêu” được xem là đóng góp, phục vụ cho chuyên ngành.
Hội đồng còn xem xét đến những phục vụ cho cộng đồng qua những bài viết trên báo chí đại chúng, những bài viết trên các tạp chí khoa học phổ thông, những ý kiến liên quan đến xã hội hay cố vấn cho Nhà nước.
Tiêu chuẩn
Mỗi tiêu chí được đánh giá bằng 4 tiêu chuẩn như sau: trung bình, trên trung bình, xuất sắc, và nổi trội. Trung bình có nghĩa là đóng góp ở mức độ kỳ vọng của chức vụ hiện tại, tức là nằm trong hạng top 50%. Trên trung bình là đóng góp ở mức trên những gì kỳ vọng trong chức danh hiện hành, tính theo hạng thì mức độ này là top 30%. Xuất sắc là đóng góp nằm vào top 10% của chức vụ hiện hành. Còn nổi trội là những đóng góp đem lại tên tuổi cho trường đại học, những đóng góp thuộc vào hàng “top 5%” của chuyên ngành.
Do đó, nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là nghiên cứu thì hội đồng khoa bảng đòi hỏi ứng viên phải thuộc hạng xuất sắc (outstanding) và nổi trội trong nghiên cứu, và trên trung bình ở các tiêu chí lãnh đạo, giảng dạy và phục vụ. Nếu ứng viên chọn ngạch đề bạt là giảng dạy thì phải đáp ứng tiêu chuẩn giảng dạy xuất sắc trở lên, nhưng các tiêu chí nghiên cứu, lãnh đạo và phục vụ thì trung bình hay trên trung bình cũng được.
Kinh nghiệm cho Việt Nam
Đối chiếu những tiêu chí và tiêu chuẩn này với tiêu chuẩn của Việt Nam, tôi thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng có cố gắng làm theo nước ngoài, nhưng… chẳng giống ai. Những tiêu chí và tiêu chuẩn mới công bố không phân biệt được ngạch đề bạt (giảng dạy và nghiên cứu). Ngoài ra, những tiêu chuẩn rất phức tạp, máy móc, tính toán theo kiểu “cân đo đong đếm” rất phi khoa học. Tiêu chuẩn tiếng Anh có thể cần thiết nhưng tôi thấy khá mù mờ, vì rất khó định nghĩa được thế nào là “có khả năng giao tiếp”.
Qua những gì trình bày ở trên, tôi nghĩ rằng có một số kinh nghiệm, bài học có thể áp dụng ở Việt Nam:
Thứ nhất là nên phân chia ngạch đề bạt. Ở nước ta có nhiều người mà nhiệm vụ chính là giảng dạy, và xét phong giáo sư cho những người này không nên đặt nặng vào những tiêu chí liên quan đến nghiên cứu khoa học. Do đó, cần có những tiêu chuẩn cho những người chuyên về giảng dạy, nghiên cứu, và thậm chí phục vụ. Có người tuy không giảng dạy và nghiên cứu khoa học nhưng có thành tích trong việc phục vụ và quản lý, thì chúng ta cũng nên có cơ chế để công nhận đóng góp của họ. Ở Đại học New South Wales (Australia) có người từng là chính trị gia, nhưng vì có nhiều đóng góp cho ngành y tế cộng đồng nên cũng được tiến phong giáo sư y khoa.
Thứ hai là không nên có những tiêu chuẩn cứng nhắc theo kiểu cân đo đong đếm. Trái với các tiêu chuẩn đề bạt trong nước về đề bạt chức danh khoa bảng bằng cách tính điểm bài báo, ở nước ngoài người ta không có những điểm cụ thể, mà chỉ đánh giá mang tính nửa lượng nửa chất. Về lượng, họ xem xét đến hệ số ảnh hưởng của tập san, chỉ số trích dẫn của các bài báo khoa học đã công bố, và nhất là chỉ số H của ứng viên. Họ không đề ra những con số bài báo cụ thể phải là bao nhiêu để được đề bạt. Những chỉ số chỉ mang tính tham khảo, vì họ còn phải đánh giá số lượng bài báo được mời đóng góp hay những lần giảng tại hội nghị quốc tế được ban tổ chức mời và chi trả.
Thứ ba là vận dụng tối đa hệ thống bình duyệt (peer review). Không như ở một số nước việc bình duyệt chức danh khoa bảng được thực hiện bằng cách bỏ phiếu kín, ở nhiều trường bên Australia và Mỹ, người ta sử dụng hệ thống bình duyệt do chính các đồng nghiệp của ứng viên làm. Triết lý đằng sau cách làm này là chỉ có đồng nghiệp cùng chuyên môn với ứng viên là những người đánh giá chính xác nhất về thành tựu và uy tín của ứng viên. Ngoài ra, để cho đồng nghiệp trong và ngoài đánh giá còn đảm bảo tính khách quan trong quá trình đề bạt.
Thứ tư là tính minh bạch. Tất cả chi tiết về thủ tục và tiêu chuẩn đề bạt cho từng chức vụ đều được phổ biến trên Internet. Ngoài ra, danh sách người trong hội đồng phỏng vấn và lĩnh vực nghiên cứu cần được công bố cho ứng viên biết trước. Thành phần hội đồng phỏng vấn được tuyển chọn sao cho đảm bảo bình đẳng giới tính, khoa học và ngoài khoa học, trong và ngoài đại học… Tính minh bạch còn thể hiện qua quy định ứng viên có quyền được xem các báo cáo bình duyệt của đồng nghiệp. Ngoài ra, phải có cơ chế để ứng viên “khiếu nại” nếu đơn xin đề bạt không thành công.
Cố nhiên, tình hình thực tế ở Việt Nam không thể ứng dụng các tiêu chuẩn Âu Mỹ để đề bạt giáo sư, nhưng tôi nghĩ có thể dựa vào các tiêu chí quốc tế như là một bước đầu trong quá trình hội nhập quốc tế. Cần phải chuyển hướng suy nghĩ giáo sư là một chức vụ, chứ không phải là phẩm hàm. Mà, chức vụ là phải gắn liền với một đại học, và do đó nên trao quyền bổ nhiệm giáo sư cho đại học. Vấn đề là tạo ra quy trình minh bạch và công bằng, chứ không phải những thủ tục rườm rà và tiêu chí không giống ai. Bộ Giáo dục và Đào tạo có thể đề ra quy trình để các đại học làm theo, nhưng không nên can thiệp vào việc bổ nhiệm.
Nguyễn Văn Tuấn
Giáo sư y khoa, Đại học New South Wales, Australia