Bà Trần Thị Hòa (79 tuổi, ngụ quận Bình Thạnh, TP HCM) thường xuyên gặp phải cơn chóng mặt thoáng qua, mắt tối sầm như muốn ngất xỉu. Lúc đầu, nghĩ đây là biểu hiện bình thường của tuổi già nên bà không đi khám. Đến khi cơn chóng mặt liên hồi kèm triệu chứng tối đen hai mắt, bà nhập viện cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM.
Ngày 12/12, ThS.BS Nguyễn Khiêm Thao, Phó khoa Loạn nhịp tim, Trung tâm tim mạch BVĐK Tâm Anh TP HCM, cho biết bà Hòa có biểu hiện đặc trưng của rối loạn nhịp. Kết quả đo điện tim phát hiện nhịp trong cơn bị rớt, tức là tim không đập trong khoảng 3-4 giây. Đây là dấu hiệu của hội chứng suy nút xoang. Nếu không can thiệp điều chỉnh nhịp tim kịp thời, bệnh nhân có nguy cơ đột tử bất cứ lúc nào.
Trước tình trạng bệnh nhân liên tục có các đoạn "rớt nhịp", bác sĩ nhanh chóng hội chẩn, tiến hành cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn cho bà Hòa. Bác sĩ chọn máy tạo nhịp 2 buồng, ưu tiên tạo nhịp trên nhĩ, dự phòng tạo nhịp thất. Máy liên tục theo dõi bệnh nhân, phát nhịp kích thích tim đập khi phát hiện tình trạng nhịp tim quá chậm.
Theo bác sĩ Thao, có những nguy cơ tiềm ẩn trong lúc can thiệp bác sĩ phải tìm cách hóa giải. Đầu tiên, quá trình chọc kim để đưa điện cực vào tim có thể gây tổn thương, thậm chí rách mạch máu hoặc đưa kim chạm động mạch dẫn tới chảy máu, phải khâu cầm máu. Thứ hai, đỉnh phổi nằm rất sát xương, cơ nên nếu đưa kim quá sâu vào mạch máu sẽ đâm thủng phổi gây tràn khí màng phổi. Cuối cùng, lúc tạo ổ máy, nếu tạo ổ máy nhỏ quá, bệnh nhân sẽ đau (do máy bị siết), đồng thời máy có nguy cơ trồi lên. Nhưng nếu tạo một ổ máy quá lớn, máy dễ bị dịch chuyển gây xoắn vặn, làm hỏng dây điện cực dẫn tới xuất huyết tại ổ máy. Nếu không xử lý kịp thời, huyết khối sẽ hình thành gây nhiễm trùng - đây chính là biến chứng của cấy máy tạo nhịp khiến bác sĩ lo ngại nhất. Nhờ tiên lượng các yếu tố nguy cơ, êkip đã chuẩn bị kỹ lưỡng, can thiệp kết thúc thành công.

ThS.BS Nguyễn Khiêm Thao kiểm tra nhịp tim cho bà Hòa trước khi xuất viện. Ảnh: Thu Hà
Bác sĩ Thao giải thích, tim được tạo thành từ bốn ngăn: hai ngăn trên (tâm nhĩ), hai ngăn dưới (tâm thất). Nhịp tim điều khiển bởi nút xoang - bộ phận nằm ở thành tâm nhĩ phải, ngay phía ngoài chỗ nối tĩnh mạch chủ trên vào nhĩ phải. Nút xoang tạo ra các tín hiệu điện kích hoạt mỗi nhịp tim. Từ nút xoang, tín hiệu điện đi qua tâm nhĩ đến tâm thất, khiến chúng co bóp, bơm máu đến phổi cũng như khắp cơ thể.
Thông thường, nút xoang tạo ra nhịp độ ổn định của xung điện. Trong hội chứng suy nút xoang, các tín hiệu điện có nhịp độ không đều. Nhịp tim có thể quá nhanh, quá chậm hoặc bị gián đoạn bởi những khoảng dừng dài (rớt nhịp). Hội chứng này tuy không phổ biến nhưng nguy cơ mắc bệnh tăng lên theo độ tuổi.
Triệu chứng phổ biến nhất của suy nút xoang là những cơn chóng mặt thoáng qua với tần suất ngày càng tăng. Ngoài ra, người bệnh còn có cảm giác nhịp tim nhanh, rung rinh (đánh trống ngực), đau hoặc khó chịu ở ngực, mệt mỏi, khó thở, ngất xỉu... Nếu không được can thiệp xử lý kịp thời, người bệnh suy nút xoang sẽ đối mặt với những biến chứng nghiêm trọng như rung tâm nhĩ, suy tim, đột quỵ, tim ngừng đập...
Hầu hết những người mắc hội chứng suy nút xoang đều cần cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn để kiểm soát nhịp tim. Đây là một thiết bị nhỏ, chạy bằng pin, được cấy dưới da gần xương đòn trong quá trình tiểu phẫu. Máy có tác dụng tạo ra xung điện nhỏ thay thế nút xoang kích thích tim đập khi cần thiết, nhằm tránh tình trạng tim đập quá chậm hoặc có khoảng ngưng quá dài. Có nhiều loại máy tạo nhịp vĩnh viễn khác nhau, như loại tạo nhịp một buồng, tạo nhịp hai buồng... bác sĩ sẽ dựa vào tình trạng bệnh để chọn loại máy phù hợp nhất cho người bệnh.

Các bác sĩ Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh điều trị rối loạn nhịp tim cho bệnh nhân dưới hướng dẫn của hệ thống can thiệp mạch (DSA) hiện đại. Ảnh: Anh Minh
Theo bác sĩ Thao, bên cạnh thao tác khéo léo khi thực hiện thủ thuật đặt máy tạo nhịp, quá trình chăm sóc bệnh nhân giai đoạn hậu phẫu rất quan trọng. Trong vòng vài ngày sau thủ thuật, người bệnh cần được rửa vết thương kỹ lưỡng, cẩn thận khi tắm gội để tránh nhiễm trùng. Khi vết mổ lành, cần tránh vận động mạnh để ổ máy không bị di lệch. Người bệnh có thể tập thể dục nhưng nên chọn bộ môn không có tính đối kháng cao như chạy bộ chậm, bơi sải, yoga... Bên cạnh đó, người bệnh nên tuân thủ lịch tái khám định kỳ (một lần/tháng trong ba tháng đầu sau thủ thuật, mỗi 3-6 tháng/lần sau đó) để kiểm tra hoạt động của máy và điều chỉnh kịp thời nếu có bất thường...
* Tên bệnh nhân được thay đổi.
Thu Hà