8h30' sáng: Felt ở trong phòng làm việc tại FBI, tìm thêm chi tiết. Cũng khoảng thời gian này, biên tập viên của Washington Post đánh thức tôi dậy ở nhà và yêu cầu tôi đi đưa tin một vụ trộm bất thường.
Đoạn đầu bài báo trên trang nhất số ra ngày hôm sau có đoạn: "5 người đàn ông, một trong số đó cho biết là cựu nhân viên Cơ quan Tình báo Quốc gia (CIA), bị bắt lúc 2h30' sáng qua. Nhà chức trách mô tả vụ này là âm mưu tinh vi nhằm nghe trộm các văn phòng của Uỷ ban quốc gia đảng Dân chủ ở Washington".
Hôm sau, tôi và Carl Bernstein viết bài báo chung đầu tiên, nhận diện một trong những tên trộm, James W. McCord Jr., là điều phối viên an ninh ăn lương trong uỷ ban tái tranh cử của Nixon. Ngày thứ hai, tôi đi tìm hiểu về E. Howard Hunt. Số điện thoại của ông này được ghi trong sổ địa chỉ của hai tên trộm với chú thích nhỏ "W. House" và "W.H". ở ngay cạnh tên.
Đây là thời điểm khi một nguồn tin hay người bạn trong các cơ quan điều tra của chính phủ có ý nghĩa vô giá. Tôi gọi cho Felt tại FBI, gặp ông qua thư ký. Đây là lần đầu tiên chúng tôi thảo luận trực tiếp với nhau về vụ Watergate. Ông nhắc tôi nhớ rằng ông không thích các cú điện thoại ở văn phòng nhưng cho biết vụ trộm Watergate sẽ "nóng lên" vì những lý do mà ông không thể giải thích. Ông nói rồi đột ngột cúp máy.
Tôi được giao viết bài báo tiếp theo về vụ nghe trộm Watergate, nhưng tôi không chắc mình có thông tin gì không. Carl được nghỉ. Tôi nhấc điện thoại và quay số 456-1414, Nhà Trắng, và xin gặp Howard Hunt. Không có trả lời, nhưng viên trực điện thoại cho biết có lẽ ông ta đang ở văn phòng Charles W. Colson, luật sư đặc biệt của Nixon. Thư ký của Colson khẳng định Hunt không ở đó nhưng có thế có mặt ở một công ty quan hệ công chúng nơi ông làm thư ký. Tôi gọi và gặp được Hunt. Tôi hỏi tại sao tên ông lại có trong sổ địa chỉ của hai tên trộm vụ Watergate.
"Chúa ơi!", Hunt thét lên rồi đập máy. Tôi gọi cho giám đốc công ty quan hệ công chúng Robert F. Bennett, hiện là thượng nghị sĩ Cộng hoà của bang Utah. "Tôi chắc Howard làm việc cho CIA", Bennett nói ôn tồn.
Đây là một bí mật với tôi. Phát ngôn viên CIA khẳng định Hunt đã làm việc cho cơ quan này từ năm 1949 đến năm 1970. Tôi lại gọi cho Felt ở FBI. "Colson, Nhà Trắng, CIA", tôi nói. Tôi có gì nhỉ? Có phải ai cũng có thể có tên người khác trong sổ địa chỉ đâu. Tôi muốn cẩn thận về tội ác của cả một tập thể.
Felt có vẻ lo lắng. Ông bảo tôi không được phép ghi lại những thông tin ông sắp nói ra, tức là tôi không thể sử dụng thông tin. Hunt là nghi phạm chính trong vụ nghe trộm Watergate vì nhiều lý do ngoài các cuốn sổ địa chỉ.
Tháng 7, Carl tới Miami, quê hương của 4 tên trộm, lần theo dấu vết những đồng tiền trong túi chúng. Anh phát hiện ra một tấm séc 25.000 USD đã được đưa vào tài khoản của Bernard L. Barker, một trong những tên trộm. Chúng tôi kết luận tấm séc 25.000 USD là tiền tranh cử được trao cho Maurice H. Stans, phụ trách gây quỹ của Nixon, trên một sân golf ở Florida. Bài báo hôm 1/8 là câu chuyện đầu tiên trực tiếp gắn kết tiền tranh cử của Nixon với Watergate.
Tôi cố gắng gọi cho Felt, nhưng ông không nhấc máy. Tôi cố gắng gọi cho ông tại nhà riêng ở Virginia nhưng cũng không may mắn hơn. Vì vậy, một đêm, tôi tới nhà ông ở Fairfax. Đó là một villa bình thường, được chăm sóc cẩn thận, mọi thứ ở đúng chỗ trong ngôi nhà vùng ngoại ô. Thái độ của ông khiến tôi lo lắng. Ông nói tôi đừng gọi điện thêm nữa, đừng tới nhà ông nữa, đừng làm chuyện gì liên quan đến ông công khai nữa.
Tôi không biết rằng trong những ngày đầu tiên ở FBI, trong Thế chiến II, Felt được giao nhiệm vụ làm việc tại bộ phận tư liệu trong ban Gián điệp. Ông đã học được rất nhiều qua cách làm gián điệp của Đức. Sau chiến tranh, ông theo dõi những người tình nghi là điệp viên Liên Xô.
Vì vậy, tại nhà riêng ở Virginia mùa hè năm đó, Felt nói nếu chúng tôi muốn nói chuyện, thì hãy tìm một nơi an toàn mà không ai nhìn thấy. Tôi đáp nơi nào cũng được.
Chúng tôi cần một hệ thống thông báo được chuẩn bị từ trước - thay đổi trong môi trường mà không ai chú ý đến. Tôi không hiểu ông sắp nói điều gì.
Ông nói, nếu tôi đóng rèm ở căn hộ, thì hãy mở ra và đây sẽ là tín hiệu. Tôi có thể kiểm tra hàng ngày hoặc có người kiểm tra. Nếu rèm mở thì đêm đó chúng tôi có thể gặp nhau tại một địa điểm đã định trước. Tôi còn muốn bất đèn nữa.
Ông nói chúng tôi còn cần các tín hiệu khác nữa, ám chỉ ông có thể thường xuyên kiểm tra căn hộ của tôi. Ông không bao giờ giải thích làm việc đó như thế nào.
Cảm thấy có sức ép nào đó, tôi nói tôi có một lá cờ màu đỏ, loại được dùng làm cảnh báo trên xe tải hạng nặng mà một cô bạn nhặt được ở trên đường. Cô ấy đặt nó trong một chậu hoa rỗng trên bancông căn hộ của tôi.
Tôi và Felt nhất trí tôi sẽ chuyển chậu hoa có lá cờ, thường đặt ngay gần lớp rào, về phía trong bancông nếu tôi cần gặp ông gấp. Ông khẳng định dấu hiệu đó quan trọng và hiếm khi sử dụng. Felt bảo dấu hiệu này có nghĩa chúng tôi sẽ gặp nhau vào lúc khoảng 2 giờ sáng ở tầng dưới cùng gara dưới cầu Key ở Rosslyn.
Felt nói tôi phải tuân thủ các kỹ thuật để không bị theo dõi một cách nghiêm ngặt. Ông bảo tôi đi qua những phố nhỏ để đến điểm hẹn. Không được dùng xe riêng. Tôi phải đi xe taxi, đổi taxi chạy lòng vòng rồi mới đến Rosslyn. Nếu bị theo dõi thì tôi không được xuống gara. Ông sẽ hiểu nếu tôi không xuất hiện. Tất cả giống như thể một bài giảng. Vấn đề quan trọng là thời gian hợp lý - dành 1-2 giờ để tới đó. Hãy kiên nhẫn, bình tĩnh. Hãy tin tưởng vào những sắp đặt từ trước. Không có chuyện huỷ hẹn hay sai giờ. Nếu cả hai không xuất hiện, thì sẽ không có cuộc gặp nào.
Felt nói nếu có thông tin gì cho tôi, thì ông sẽ gửi thông điệp. Ông hỏi tôi về lịch làm việc hàng ngày, những gì và những ai tới nhà tôi, hộp thư... Tờ Washington Post được đặt ngay trước cửa căn hộ. Tôi còn đặt tờ New York Times nữa. Một số người trong khu nhà gần Dupont Circle của tôi cũng đặt nhật báo này. Báo được đặt trong hành lang với số căn hộ. Số của tôi là 617 và được viết rõ ràng bên ngoài mỗi tờ báo bằng bút dấu. Felt nói nếu có gì quan trọng, ông sẽ có dấu hiệu trên tờ New York Times. Tôi không bao giờ biết ông làm như vậy bằng cách nào. Trang 20 sẽ được khoanh tròn, và ông vẽ kim đồng hồ ở góc dưới của trang để ám chỉ thời gian cuộc hẹn vào ban đêm, có thể là 2 giờ sáng, cũng tại gara Rosslyn.
Mối quan hệ này hoàn toàn là tin cậy lẫn nhau. Ông nói chúng tôi không được thảo luận hay chia sẽ thông tin với ai khác.
Đến giờ, tôi vẫn không biết làm sao ông có thể quan sát ban công nhà tôi. Thời đó, trước giai đoạn tăng cường an ninh, phía sau nhà được mở ra, vì vậy ai lái xe ở con phố phía sau cũng có thể thấy ban công nhà tôi. Thêm vào đó, ban công và phần sau căn hộ giáp với một khoảng sân chung với căn hộ, các toà nhà văn phòng khác trong khu vực. Vì vậy, người ta có thể nhìn thấy ban công nhà tôi từ nhiều căn hộ hay văn phòng.
Nhiều sứ quán đóng tại khu vực. Sứ quán Iraq ở ngay trên phố. Tôi nghĩ FBI có các điểm theo dõi và nghe trộm gần đó. Liệu Felt có các điệp viên phản gián thường xuyên báo cáo về lá cờ và chậu hoa của tôi không? Rất nhiều khả năng là không, nếu như không nói là không thể.
Nguyễn Hạnh (theo Washington Post)
Còn nữa