Ngay từ khi thành lập, Hội đồng Bảo an đã có 5 thành viên thường trực, gồm Mỹ, Liên Xô, Vương quốc Anh, Pháp và Trung Quốc. Ba nước đầu là những người thắng trận chính trong chiến tranh thế giới hai, và cả năm thành viên này khi đó đại diện cho đa số dân trên thế giới (tính cả các nước thuộc địa), mỗi nước gần như ngang bằng nhau.
Biệt ngữ của LHQ thường dùng P5 và P3 để chỉ cả năm thành viên Hội đồng Bảo an hoặc là ba thành viên phương Tây (là Mỹ, Pháp và Anh).
Khi Hiến chương được thông qua, còn có mặt 6 thành viên không thường trực. Con số này tăng lên thành 10 thành viên sau khi một văn bản sửa đổi được thông qua ngày 17/12/1963. Điều 3 của nghị quyết sửa đổi này cũng ấn định số lượng đại diện theo khu vực địa lý. Cụ thể châu Phi, châu Á, châu Mỹ Latinh, Tây Âu mỗi khu vực 2; Đông Âu: 1, và suất còn lại luân phiên giữa châu Phi và châu Á (hiện đang đến phiên của châu Phi). Các thành viên không thường trực có nhiệm kỳ hai năm, mỗi năm bầu lại một nửa thông qua hình thức bỏ phiếu đa số 2/3 tại Đại hội đồng. Các thành viên vừa mãn nhiệm không được tái cử ngay lập tức.
Sau khi Liên Xô tan rã, Tổng thống Boris Eltsine đã gửi tới Đại hội đồng LHQ một bức thư ngày 24/12/1991 trong đó viết rằng Liên bang Nga sẽ thay thế vị trí của Liên Xô trong Hội đồng Bảo an. Quyết định này đã được Hội đồng phê duyệt vào tháng 1/1992.
Trung Quốc và Pháp có mặt trong 5 thành viên thường trực chỉ là mang tính đại diện chứ không phải vì vai trò trong chiến tranh của họ. Năm 1945, các thành viên này chiếm 50% dân số thế giới (Trung Quốc chiếm 15%). Đến năm 2006, sau làn sóng giải phóng thuộc địa cuối những năm 1940 và giữa những năm 1960, rồi sức ép gia tăng dân số ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, sự tan rã của Liên Xô và việc dân số các nước Pháp và Anh giảm đi, các thành viên này chỉ chiém 30% dân số thế giới, trong đó riêng Trung Quốc chiếm 20%.
Tình hình này giải thích tại sao một phần lớn các quốc gia thành viên, nhất là từ những năm 1970, lại phản đối sự tồn tại của các thành viên thường trực, và muốn thay đổi số thành viên thường trực và không thường trực. Những nước như Nam Phi, Đức, Brazil, Ai Cập, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Nigeria hay Italy đều muốn trở thành thành viên thường trực.
Một nguồn cơn gây ra vấn đề này là lá phiếu phủ quyết của các thành viên thường trực thường gây cản trở việc thông qua các nghị quyết. Bởi một hoặc nhiều thành viên thường trực muốn rằng vấn đề đó không chỉ được quyết định trong khuôn khổ Hội đồng Bảo an, nhất là khi các nghị quyết này đề ra các cơ chế ép buộc (như cấm vận) hoặc các can thiệp trực tiếp của lực lượng mũ nồi xanh của Liên hiệp quốc.
Có thể lấy ví dụ vào năm 2006 với việc Israel tấn công Lebanon, việc Iran không tuân thủ các cam kết về hạt nhân, và vụ CHDCND Triều Tiên thử bom hạt nhân: trong các trường hợp này, một trong các thành viên đã ngăn cản việc thông qua một nghị quyết ép buộc, kể cả khi một nghị quyết trước đó đã đáo hạn (như trường hợp của Iran).
Vấn đề về tính đại diện của các thành viên không thường trực và số lượng thành viên này đã dấy lên từ những năm 1960. Hiến chương sửa đổi tháng 12/1063 đã nhằm sửa chữa vấn đề này bằng cách tăng số lượng thành viên không thường trực từ 6 lên 10 thành viên và ấn định số lượng cho từng vùng. Nhưng kể từ đó, sự thay đổi của dân số và địa chính trị đã khiến cho một số vùng bị giảm mất tính đại diện của mình. Nhóm “Á – Phi” chẳng hạn, họ đại diện cho 65% dân số thế giới và giữ 50% số ghế trong tổ chức này, trong khi Mỹ Latinh chỉ có 10% dân số thế giới lại có tới 20% số ghế thành viên.
Cuộc cạnh tranh ghế không thường trực đôi khi dẫn tới những ngõ cụt nghiêm trọng. Điển hình là trường hợp năm 1979, 155 vòng bỏ phiếu đã phải diễn ra mà vẫn không phân thắng bại được giữa Cuba - được phương Đông ủng hộ - với Colombia - được phương Tây ủng hộ. Cuối cùng thì Mexico, “trung dung” hơn, đã được bầu.
Năm 2006, lại có một vấn đề tương tự, lần này ra giữa một ứng cử viên nổi tiếng là “toàn cầu hóa” (Guatemala) với một ứng cử viên nổi tiếng là “chống toàn cầu hóa” (Venezuela). Sau 47 vòng bỏ phiếu, ngày 2/11/2006, cả hai nước này đều không giành được 128 phiếu cần thiết (tức là 2/3 số phiếu của Đại hội đồng). Cuối cùng, Panama, một ứng cử viên thỏa thuận, đã đắc cử vị trí này. Ngày 7/11/2006, Panama được bầu làm thành viên không thường trực tại Hội đồng Bảo an trong hai năm, đại diện cho nhóm các nước Mỹ Latinh và Caribe. Họ nhận được 164 phiếu vào vòng bỏ phiếu thứ 48.
Tính đến ngày 13/7/2006, quyền phủ quyết đã được sử dụng 258 lần với 122 lần do Liên Xô/Nga đưa ra, 81 lần của Mỹ, 32 lần của Anh, 18 lần của Pháp và 5 lần của Trung Quốc.
Hơn một nửa số lần phủ quyết này (143 lần) được đưa ra trong thập kỷ đầu tiên ngay sau khi thành lập Liên hợp quốc (83 lần) và trong thập kỷ 1976 -1985 (60 lần). Trong những năm 1996-2006, nó đã được sử dụng 13 lần, tức là ít thường xuyên hơn 2,5 lần so với thập kỷ trước: 1956-1965 chỉ có 31 lần phủ quyết.
Đặc biệt trong những năm 1946 – 2006, có một sự khác biệt lớn giữa Mỹ và Liên Xô (sau này là Nga). Trong thập kỷ đầu, Mỹ không lần nào sử dụng quyền phủ quyết, và trong hai thập kỷ tiếp theo, nước này chỉ sử dụng có 12 lần. Ngược lại, trong thời gian 30 năm đó, Liên Xô đã 113 lần dùng đến quyền này.
Trong số các lần lá phiếu phủ quyết được sử dụng từ trước tới nay, 59 lần là để bác bỏ việc cho một nước mới trở thành thành viên, nhất là trong hai thập kỷ đầu (các thành viên của Liên hiệp quốc hiện nay hầu hết là gia nhập sau này).
Có một số nghị quyết bị treo trong một thời gian nào đó, rất lâu, thậm chí còn qua cả cái ngày mà nó sẽ mất hiệu lực thi hành nếu được thông qua. Nguyên nhân là do quy chế thành viên thường trực, thêm vào đó là sự thiếu nhất trí của toàn bộ (hay đa số) các thành viên Hội đồng Bảo an cũng như của Đại hội đồng.
Ví dụ điển hình là nghị quyết về “cuộc khủng hoảng Trung Đông” - từ dùng để chỉ các cuộc xung đột khác nhau giữa các nhà nước hoặc trong một nhà nước liên quan đến các nước láng giềng của Israel, bao gồm cả khủng hoảng trong chính Israel, giữa Israel với Ai Cập, Libăng, Syria, Palestine, Jordani và Iraq. Cuộc khủng hoảng đặc biệt này từ năm 1948 đã cho ra đời một số lượng lớn các nghị quyết của Hội đồng Bảo an: 255 trên tổng số 1718 nghị quyết (tính đến ngày 18/10/2006), tức là tỷ lệ một trong số bảy tổng số nghị quyết của Hội đồng tính đến cuối năm 2006. Như vậy là trung bình cứ mỗi năm bốn nghị quyết.
Nghị quyết 1685 ngày 13/6/2006 đã “yêu cầu các bên liên quan thực hiện ngay lập tức nghị quyết số 338 ngày 22/10/1973”. Trong thời gian này, hơn 100 nghị quyết đã ra đời, và ít nhất 3 nghị quyết trong đó đề nghị điều tương tự.
Năm 2000, để “giải cứu” tình trạng bất động của các nghị quyết vì các nước thành viên sử dụng quyền phủ quyết, cựu bộ trưởng Quốc phòng Pháp Paul Quilès đã đề xuất hạn chế quyền phủ quyết trong những vấn đề huy động vũ lực và buộc phải nêu lý do nếu dùng quyền này.
Bạch Dương (tổng hợp)