Trong công cuộc tìm kiếm tương lai, tôi gửi thư tới Washington Post xin chân phóng viên. Không biết làm sao - tôi nhớ không chính xác lắm - mà biên tập viên Harry Rosenfeld đồng ý gặp tôi. Ông nhìn tôi qua cặp kính với vẻ hơi băn khoăn. Ông hỏi tại sao tôi lại muốn trở thành phóng viên. Tôi không hề có chút kinh nghiệm nào. Ông hỏi tôi tại sao Washington Post lại nên nhận một người không hề có kinh nghiệm. Tuy nhiên, cuối cùng Rosenfeld nói: "Chúng ta sẽ thử xem. Anh có hai tuần thử việc".
Sau 2 tuần, tôi viết được khoảng một chục câu chuyện hay mẩu tin. Tuy nhiên, chẳng một đoạn nào được đăng hay suýt được đăng. Không một tin nào được biên tập.
"Thấy không, anh không biết làm thế nào", Rosenfeld nói, kết thúc hai tuần thử việc của tôi. Tuy nhiên, tôi rời khỏi toà soạn vui sướng hơn bao giờ hết. Dù không vượt qua kỳ thử việc - một thất bại "ngoạn mục", nhưng tôi nhận ra rằng mình đã tìm ra nghề nghiệp yêu thích. Tính tức thì trong tờ báo tràn ngập con người tôi. Tôi nhận việc ở tuần báo Montgomery Sentinel, nơi Rosenfeld cho rằng tôi có thể học cách làm phóng viên. Tôi thông báo với cha là sẽ không theo học trường luật nữa và tôi sắp đi làm với mức lương 115 USD/tuần với vị trí phóng viên cho một tuần báo ở Maryland.
"Con điên rồi", cha tôi nói. Ông rất hiếm khi nói những câu đại loại như vậy với tôi.
Tôi cũng gọi cho Mark Felt. Với thái độ dịu dàng hơn, ông cũng cho rằng thật là điên rồ. Ông nghĩ báo chí thật nông cạn và thường bị bỏ vào ngăn kéo một cách nhanh chóng. Báo chí không đi sâu và hiếm khi đạt tới chân sự việc.
Tôi khẳng định mình đang rất phấn chấn. Có lẽ ông có thể giúp tôi viết báo.
Mark Felt không trả lời.
Trong một năm làm việc cho Sentinel, tôi luôn giữ liên lạc với Felt qua những cuộc điện thoại gọi tới văn phòng và nhà riêng. Trên phương diện nào đó, chúng tôi trở thành bạn bè. Ông là cố vấn, giữ tôi khỏi rơi vào "các cuộc điều tra giấy toilet" và tôi xin lời khuyên. Một ngày cuối tuần, tôi lái xe tới nhà riêng của Felt ở Virginia và gặp vợ ông, Audrey.
Tôi hơi bất ngờ khi biết Felt rất ngưỡng mộ J. Edgar Hoover. Ông đánh giá cao sự ngăn nắp của giám đốc FBI và cách ông điều hành cơ quan với những thủ tục khắt khe theo kiểu "bàn tay sắt". Felt đánh giá cao Hoover ở chỗ ông tới nhiệm sở 6h30' hằng sáng và ai cũng biết mong muốn của sếp. Felt nói Nhà Trắng của Nixon lại là một vấn đề khác. Sức ép chính trị rất lớn, dù ông nói không cụ thể. Tôi nghĩ Felt ám chỉ là nó "tham nhũng" và gây tai hoạ. Hoover, Felt là bức tường bảo vệ FBI.
Felt xuất bản hồi ký "FBI: Nhìn từ bên trong" năm 1979, tức 5 năm sau khi tổng thống Richard M. Nixon từ chức, nhưng cuốn sách gần như không gây được sự chú ý.
Trước khi vụ Watergate bị phơi bày, người ta hầu như không hề biết mối quan hệ căng thẳng giữa Nhà Trắng của Nixon và FBI của Hoover. Cuộc điều tra vụ Watergate sau này tiết lộ năm 1970, một trợ lý Nhà Trắng trẻ tuổi có tên Tom Charles Huston nêu kế hoạch cho phép CIA, FBI và các đơn vị quân báo tăng cường giám sát điện tử "các mối đe doạ an ninh trong nước", cho phép mở thư từ một cách bất hợp pháp, dỡ bỏ hạn chế với những cuộc đột nhập nhằm thu thập thông tin tình báo.
Trong bản ghi nhớ tuyệt mật, Huston cảnh báo kế hoạch này rõ ràng là bất hợp pháp. Nixon vẫn thông qua. Hoover tìm mọi cách phản đối vì nghe trộm, mở thư và đột nhập vào nhà riêng, văn phòng, các mối đe doạ an ninh trong nước về cơ bản thuộc phạm vi hoạt động của FBI và cơ quan này không muốn cạnh tranh. 4 ngày sau, Nixon huỷ kế hoạch của Houston.
Felt, một con người có học vấn rất cao, nhận thấy rằng sau này khi viết, ông coi Huston là một kiểu "gauleiter" của Nhà Trắng với cộng đồng tình báo. Từ "gauleiter" không có trong hầu hết các từ điển, nhưng theo Từ điển Bách khoa toàn thư tiếng Anh Webster, nó có nghĩa "lãnh đạo hay quan chức một khu vực dưới quyền kiểm soát của Đức Quốc xã".
Gần như rõ ràng Felt nghĩ đội ngũ của Nixon là Đức Quốc xã. Trong thời kỳ này, ông phải ngăn chặn nỗ lực của những người khác trong FBI để nhận diện tất cả các thành viên của mọi cộng đồng hippie, hay mở hồ sơ của tất cả thành viên của Hiệp hội Sinh viên vì Dân chủ.
Tôi và Felt không trực tiếp bàn đến chuyện này, nhưng rõ ràng Felt đang chịu sức ép. Mối đe doạ với tính độc lập của FBI là có thể và có vẻ như ở vị trí cao nhất trong tâm trí ông.
Hôm 7/1/1971 - khoảng một năm trước khi Hoover qua đời và vụ Watergate xảy ra, Hoover tiến cử Felt vào vị trí cao cấp số 3 trong FBI. Mặc dù người bạn nối khố của giám đốc FBI, Clyde Tolson, là vị quan chức số hai, nhưng ông này rất ốm yếu và nghỉ làm nhiều ngày. Điều đó có nghĩa nhân vật thứ hai FBI không kiểm soát cơ quan trên thực tế. Vì vậy, người bạn của tôi trở thành người quản lý tất cả các vấn đề của FBI hằng ngày và ông có nhiệm vụ thông báo với Hoover, Tolson hoặc xin Hoover thông qua các vấn đề chính sách.
Nguyễn Hạnh (theo Washington Post)
Còn tiếp