Matxcơva một chiều lạnh giá, trời như sáng thêm bởi màu của tuyết... Bấy giờ đang giữa mùa đông của Nga, trên một chuyến taxi, tài xế hỏi: “Anh đến từ đâu?”. “Việt Nam”, tôi đáp.
Ông tài xế khoảng chừng 60 tuổi, cho xe giảm tốc độ và đưa một tay qua vỗ mạnh lên vai tôi: “Việt Nam à...! Hay quá, hay quá... Anh biết không, ngày trước cứ mỗi lần xem tivi thấy Việt Nam bắn rơi máy bay Mỹ là tôi vạch lên tường một cái. Cứ thế, cứ thế, càng ngày càng nhiều vạch! Các anh cừ lắm! Sao, bây giờ hết chiến tranh chưa? Cuộc sống bên ấy thế nào?”.
Tôi và ông cứ huyên thuyên đủ thứ chuyện như những người đồng đội lâu ngày gặp lại. Xe dừng, ông vui vẻ mở cửa giùm tôi và không quên siết chặt tay trước khi giã từ. Alex, đó là tên của ông. Tôi bước đi trong gió tuyết, ngực hơi ưỡn ra vì niềm tự hào vừa có, nhưng một chút buồn vẫn cuốn theo những bước chân...
Vài ngày sau khi Mỹ đem những trái bom “dân chủ” vào Iraq, cũng trên một cuốc taxi, anh tài xế người vùng Viễn Đông Nga tên là Sasha đã ôm chầm lấy tôi khi biết tôi từ Việt Nam đến. Anh nói trong nỗi xúc động tột độ: “Tôi cứ tưởng Iraq sẽ dạy cho Mỹ một bài học như Việt Nam từng làm. Ai dè..., chán quá! Anh biết tôi tức mấy thằng Iraq như thế nào không?”.
Tôi liếc ngang thấy mặt Sasha đỏ gay, anh chẳng cho tôi nói được điều gì dù chỉ một lời về sự khác nhau giữa hai cuộc chiến, một mình anh cứ nói về cuộc chiến Iraq nhiệt thành như chính anh là người Iraq vậy. Lâu lâu anh lại tung ra những câu chửi thề để tỏ thái độ bất bình trước sự phản kháng yếu đuối của quân đội Iraq. Và tất nhiên anh không quên ngợi ca lòng can đảm của người Việt chúng ta. Nhưng khi tôi hỏi: “Anh có biết Việt Nam bây giờ như thế nào không?”, Sasha nhún vai, lắc đầu, bảo rằng không biết...
Câu chuyện khác xảy ra vào một dịp tôi đi nghỉ hè ở thành phố Pskov. Mùa hè ở làng quê Nga thật trong lành và tuyệt diệu. Một ít thịt nướng, vài chai vodka, một phòng tắm hơi... là hương vị của một kỳ đi “đa-cha” (đi dã ngoại ở đồng quê) mà đến Nga là phải thưởng thức. Anton là tên người chủ nhà, là người anh em kết nghĩa với chú tôi.
Anton kể rằng ông đã sống và làm việc tại Cam Ranh 15 năm, ông về hưu cách nay khoảng năm năm. Ông chỉ cho tôi xem chiếc máy hát Sony mà ông mua từ Cam Ranh, có lẽ đây là kỷ vật duy nhất mà ông có được trong khoảng thời gian gắn bó với Cam Ranh. Cái máy hát nay đã cũ mèm nhưng âm thanh còn tốt, ông đặt nó bên hiên nhà nơi gần khu đất trồng khoai tây.
Ông cười giải thích: “Cứ mỗi lúc làm vườn thấy mệt là tôi bật nó lên. Nghe nó hát là tôi như được trẻ ra vài tuổi...”. Ông mừng như trẻ con được kẹo khi tôi tặng ông đĩa nhạc Việt Nam. Ông không nói ra nhưng nhìn vào đôi mắt ông, tôi hiểu ông yêu mến đất nước của tôi...
Ở chợ, một vị khách người Nga lịch sự bước vào cửa hàng của một người Việt: “Xin chào!”, ông nói bằng tiếng Việt. Sau vài câu đùa vu vơ, ông nói tiếp bằng tiếng Nga: “Tôi vừa mua chiếc cà vạt, anh xem có cái áo nào tốt và hợp với cái cà vạt này không? Đắt cũng được...”. Người bán hàng nhanh nhảu đưa ra một cái áo mà tôi thấy chẳng hợp với cái cà vạt chút nào.
Nhưng đáng nói hơn, cái áo không phải loại tốt và dân trong nghề đều biết đó là hàng tồn. Sau một loạt giải thích bằng tiếng Nga “bồi” của người bán hàng, vị khách Nga vui vẻ lấy chiếc áo với giá 500 rúp (khoảng 250.000 đồng tiền Việt). Bỏ chiếc áo vào túi rồi cảm ơn, vị khách không hề hay biết mình bị lừa!
Tại chợ Vòm một buổi sáng chủ nhật, khách đi mua hàng chen lấn đông đúc. Tôi cũng rảo bước theo những người khách Nga. Tại khu chợ KT, một khu trong liên hợp chợ Vòm, một người phụ nữ Nga trạc 50 tuổi đang năn nỉ đổi lại cái váy bà mua hôm qua. Lẫn trong sự ồn ào, tôi nghe bà ta nói rằng cái váy hơi chật nên bà đòi được đổi lại cỡ lớn hơn.
Chủ cửa hàng là một cô gái người Việt trạc 30 tuổi khăng khăng không cho đổi, cô ta nói văng cả nước bọt: “Bà mua ở đâu rồi tới đây đổi à? Không có đâu, đừng có lừa đảo...”. Người phụ nữ nọ từ tốn giải thích và đưa ra tấm danh thiếp mà hôm qua cô đưa cho bà. Nhưng bà càng năn nỉ thì người bán hàng càng lớn tiếng chửi bới... Những vị khách Nga đang mua hàng lặng lẽ bỏ đi, những người bên cạnh lắc đầu chán ngán.
Tôi thẹn thùng lẩn nhanh trong những vị khách cao lớn. Từ đâu đó tôi nghe tiếng một người đàn ông thốt lên bực tức: “Đồ lừa đảo!”. Nếu bạn có dịp đến Nga và đến thăm khu chợ Vòm, chắc chắn bạn sẽ nghe và thấy rất nhiều những mẩu chuyện tương tự...
Một lần trên đường đi xe buýt về nhà, tình cờ tôi đi cùng chuyến với vài người Việt khác. Vừa lên xe là họ chuyện trò tíu tít như tại phòng riêng của mình! Một vài người Nga tỏ vẻ khó chịu, nhưng những vị khách Việt vẫn vô tư không cần hay biết. Rồi một trong số họ quay sang loay hoay với những túi xách... Những người ngồi gần đó lặng lẽ bỏ sang những ghế khác.
Tôi tái mặt khi nhìn thấy những con chim bồ câu bị vặt hết lông nằm gọn trong bịch nilông trắng của những vị khách Việt. Một phụ nữ Nga lầm bầm: “Thật bẩn thỉu!”. Nhưng hình như những người đồng hương của tôi không hề nghe thấy những lời đó...
Tại Trung tâm thương mại Sông Hồng một ngày cuối thu, tôi lẫn vào những khách hàng người Nga. Một người Việt đang ngắt những mẩu bánh mì cháy vứt xuống đường. Thấy thế một người Nga còn trẻ làu bàu: “Đồ thiếu văn hóa!”. Người Nga cũng như số đông người châu Âu khác, không bao giờ người ta vứt thức ăn một cách bừa bãi như thế, mọi thứ gọi ra là phải ăn cho kỳ hết. Bánh mì bị hư hay cháy thì phải tìm chỗ gác lên cho chim chóc ăn chứ không phải vứt ra đường.
Anh Nguyễn Ngọc Thương là một người đến Nga đã 20 năm nay, anh kể: “Hồi chúng tôi mới qua, người Nga thương và tôn trọng lắm. Ra đường, nếu không có khăn quàng cổ có lúc còn được “mama” (mẹ) Nga đưa cho. Đi xe buýt, với người Việt thì đứng bất kỳ ở đâu người ta cũng ghé, không nhất thiết phải đợi ở trạm dừng như người Nga...”. Trút một hơi thở dài rồi anh nói tiếp: “Bây giờ thì chán lắm...!”.
Trước năm 1990, người Việt qua Nga hoàn toàn bằng con đường “chính ngạch”. Từ sân bay họ được đón thẳng về nhà và được khám bệnh một cách kỹ lưỡng. Tại đó họ bị cách ly khỏi cộng đồng một thời gian để theo dõi bệnh tật... Cũng trong thời gian này, họ được học tiếng Nga một cách bài bản và được phổ biến những kiến thức sơ đẳng về văn hóa Nga.
Sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga có quá nhiều đổi thay. Người Nga đang phải đối mặt với nhiều lo toan. Sau nhiều năm được nhà nước bảo bọc, nay người Nga cũng đã phải cực nhọc “xuống đường” vì miếng cơm manh áo của chính mình. Người Việt đến Nga bây giờ cũng khác, thông qua rất nhiều con đường.
Những người này đa số là lớp trẻ ở các vùng quê, học đến THPT là nhiều. Họ tới Nga được chừng ba hôm là phải lao vào công việc tại các chợ của người Việt hay một số xí nghiệp khác. Về ngôn ngữ, chợ búa là ngôi trường dạy tiếng Nga duy nhất của họ! Điểm xuất phát là những vùng quê, tiếng tăm học ở chợ và thiếu kiến thức về văn hóa là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những câu chuyện đáng buồn kể trên.