Ông Lê Ân có vợ là bà Lê Ngọc Lan và 6 con chung. Sau giải phóng miền Nam, bà Lan cùng các con hồi hương về Nha Trang. Trong những năm xa vợ, ông Lê Ân ở TP HCM đã chung sống với nhiều phụ nữ khác, trong đó có "kỳ nữ" Lê Đỗ Hạnh Kiều (cũng sắp bị truy tố ra toà).
Toà cấp quận thụ lý... "phúc thẩm"
Đầu năm 1984, ông Ân và bà Lan xin ly hôn. Tại quyết định ngày 22/3/1984, TAND quận Tân Bình đã căn cứ sự thoả thuận của đôi bên để công nhận việc tự phân chia tài sản: ông Ân được sở hữu một xe Honda, một xe du lịch; còn bà Lan được sở hữu kiốt ở Nha Trang và căn nhà 408 đường Cách Mạng Tháng Tám, quận Tân Bình, TP HCM.
Thực ra, về tài sản chung, vợ chồng ông Ân còn có một căn nhà nữa mang số 406 đường Cách Mạng Tháng Tám (kế căn 408). Tuy nhiên, hồi đó do hợp tác xã mượn căn nhà này làm điểm bán gạo, vợ chồng ông Ân sợ bị trưng dụng nên đã nhờ cha ruột ông Ân là Lê Tiệu đứng tên để kê khai nhà đất. Vì thế, trong lúc ly hôn, hai vợ chồng đã thoả thuận nhất trí để ông Ân sở hữu luôn căn nhà 406, không cần đưa vào bản án.
Đến khi có quyết định công nhận thuận ly hôn, ông Ân yêu cầu cha làm giấy cho ông Lê Thìn, em ruột ông Ân, đứng tên lập thủ tục hợp thức hoá nhà 406 rồi bán ngay cho người khác. Sau khi hoàn tất việc bán nhà, đầu năm 1988, ông Ân trở lại TAND quận Tân Bình yêu cầu phải chia lại tài sản, cho ông được sở hữu một nửa căn nhà 408 mà trước đó đã thoả thuận giao cho bà Lan.
Mặc dù quyết định thuận ly hôn của TAND quận Tân Bình đã có hiệu lực trước đó hơn 4 năm (7/4/1984), nhưng đến ngày 20/4/1988, bà Nguyễn Thị Xuân Mai, thẩm phán TAND quận, vẫn thụ lý đơn của ông Ân để giải quyết phân chia tài sản... hậu ly hôn, có nghĩa "tự mình phúc thẩm bản án của... mình". Theo các chuyên gia pháp luật, đây là lần đầu tiên trong lịch sử tố tụng nước ta xuất hiện sự kiện kỳ cục này.
Việc làm khó hiểu của tòa quận và thành phố
Sau vụ thụ lý... "phúc thẩm" nêu trên, do có nhiều bê bối khác, nên thẩm phán Nguyễn Thị Xuân Mai nên đã bị sa thải khỏi ngành. Vụ việc những tưởng được khép lại nhưng tháng 11/1993, trong lúc bà Lan đang lập thủ tục hợp thức hoá căn nhà 408 thì bất ngờ nhận được công văn của Phòng Quản lý đô thị Tân Bình. Theo đó, Phòng đã nhận được đơn của ông Ân, đề nghị ngừng giải quyết việc hợp thức hoá căn nhà, vì đã có quyết định kháng nghị ngày 24/7/1988 của TAND thành phố.
Lúc này bà Lan mới "tá hoả" coi lại các bản photocopy mà Phòng Quản lý đô thị đưa ra và vỡ lẽ: 1 tháng sau khi thẩm phán Nguyễn Thị Xuân Mai thụ lý... "phúc thẩm" không thành, Chánh án TAND thành phố đã ra quyết định kháng nghị, rồi tiếp đến quyết định giám đốc thẩm, huỷ phần phân chia tài sản mà bà Lan không hề hay biết.
Đáng nói là quyết định kháng nghị lấy lý do hai người còn tài sản khác chưa được chia hiện đang tranh chấp là căn nhà 406, trong khi căn nhà này ông Ân đã tẩu tán trước đó mà không hề có tranh chấp. Còn quyết định giám đốc thẩm lại cho rằng căn nhà 408 chưa có giấy tờ hợp lệ, lại được thuận giao cho bà Lan là không hợp lý. Thế rồi, quyết định giám đốc thẩm... "treo án" suốt 13 năm đằng đẵng. Đến nay TAND quận Tân Bình vẫn chưa đưa ra xử lại.
Đặc biệt, vào ngày 4/5/2000, TAND Tân Bình mời bà Lan lên với tư cách nguyên đơn, yêu cầu bà nộp án phí 2 triệu đồng để lại một lần nữa thụ lý giải quyết... "phúc thẩm".
Không rõ vì sao quyết định giám đốc thẩm của TAND thành phố ra đời đã hơn 13 năm lại bị treo đó không được thực hiện, trong khi về nguyên tắc, mỗi năm Phòng Giám đốc kiểm tra phải có trách nhiệm kiểm tra việc thực thi nội dung các quyết định giám đốc thẩm được giao về cho toà cấp dưới giải quyết lại từ đầu? Cho đến ngày 22/8, TAND thành phố vẫn chưa tìm ra bản gốc quyết định giám đốc thẩm của vụ án này, thậm chí ngay đến hồ sơ nghị án là tài liệu không được phép huỷ, cũng... không có. Phải chăng quyết định giám đốc thẩm ngày 30/9/1988 của TAND TP HCM chỉ là một quyết định..."ma"?
(Theo Lao Động)