Lý lịch và hành vi phạm tội của từng bị can
130. Bị can Trương Thị Lan
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày: 25/3/1964 tại TP HCM
- ĐKNKTT: 36 Nguyễn Hữu Cầu, Tân Định, quận 1, TP HCM
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Phật
- Trình độ văn hóa: 9/12
- Cha: Trương Văn Cam (bắt giam 12/12/2001)
- Mẹ: Phan Thị Trúc (bắt giam tháng 1/2002)
- Chồng: Dương Ngọc Hiệp (bắt giam tháng 12/2001)
- Con: 3 người con, lớn nhất sinh 1983, nhỏ nhất sinh 1994
b. Quá trình hoạt động
Còn nhỏ ở với cha mẹ, học hết lớp 9 nghỉ. Năm 1981 lập gia đình, buôn bán, nội trợ cho đến khi bị bắt.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Ngày 12/8/2002, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú về hành vi đưa hối lộ.
c. Hành vi phạm tội
Trương Thị Lan là con gái của Trương Văn Cam (Năm Cam) và là vợ của Dương Ngọc Hiệp. Cuối năm 2001, Trương Văn Cam và Hiệp bị cơ quan công an khởi tố, bắt giam, Lan đã điện thoại gặp Tôn Vĩnh Đắc (Long "Đầu Đinh"), là bạn của Dương Ngọc Hiệp - người đã giúp Hiệp chạy tội cho Trương Văn Cam năm 1995 - để nhờ Đắc tìm người giúp chạy tội cho Trương Văn Cam và Hiệp. Do quen biết với Nguyễn Thập Nhất, sau khi Lan đặt vấn đề, Đắc đã ra Hà Nội tìm và gặp Nguyễn Thập Nhất (lúc đó là Trưởng phòng kiểm sát giam giữ VKSND Hà Nội) tại số 97 Trần Hưng Đạo, Hà Nội (quầy bán vé máy bay của gia đình Nhất), trình bày việc Trương Văn Cam, Hiệp bị bắt và nhờ Nhất giúp đỡ để Trương Văn Cam và Hiệp được tha về. Nhất nhận lời và đặt vấn đề muốn giúp thì phải có tiền 5.000-10.000 USD. Sau đó Đắc điện thoại vào TP HCM cho Trương Thị Lan thông báo việc đã gặp Nhất và yêu cầu Lan đưa cho Đắc 10.000 USD. Lan đồng ý và giao đủ 10.000 USD cho Nguyễn Tấn Lộc (em bà con của Đắc) để Lộc mang ra thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An giao cho Đắc (lúc này Đắc đang có công việc tại Vinh). Sau khi Đắc nhận được tiền của Lan, Đắc ra Hà Nội tìm gặp Nguyễn Thập Nhất, đưa cho Nhất 2.000 USD, còn lại 8.000 USD Đắc tiêu sài cá nhân. Cũng thời điểm này, Đắc còn hỏi mượn Trương Thị Lan 1.000 USD để mua đồ sửa xe và mua vé máy bay đi Lào. Lan đã đưa cho Đắc 1.000 USD. Tổng cộng Lan đã đưa cho Đắc 11.000 USD.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được đã có đủ cơ sở kết luận Trương Thị Lan đã phạm tội đưa hối lộ, tội danh được quy định tại điều 289 BLHS.
Riêng hành vi nhận tiền của Tôn Vĩnh Đắc (9.000 USD) và Nguyễn Thập Nhất (2.000 USD), Đắc và Nhất không phải là chủ thể đặc biệt bắt buộc của tội nhận hối lộ, do vậy Cơ quan điều tra khởi tố và xử lý theo tội danh khác
131. Bị can Phạm Sỹ Chiến
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày 7/5/1947 tại Thái Bình
- ĐKNKTT: Cụm 4, tổ 28 (603/1), phường Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Cha: Phạm Văn Bút (chết)
- Mẹ: Nguyễn Thị Hồng (chết)
- Vợ: Phạm Thị Chức, sinh 1950
- Con: có 3 người con, lớn nhất sinh 1976, nhỏ nhất sinh 1980
b. Quá trình hoạt động
Từ năm 1965 đến 1970, công tác tại mỏ than Vàng Danh. Từ năm 1971 đến 1972 học bổ túc nông lâm. Từ năm 1973 đến 1995 công tác tại VKSND Quảng Ninh (năm 1988 được bổ nhiệm làm Viện trưởng VKSND Quảng Ninh đến năm 1995). Từ tháng 4/1995 đến tháng 9/2002 là Phó viện trưởng VKSND Tối cao. Ngày 5/9/2002, bị cách chức Phó viện trưởng VKSND Tối cao, cách chức kiểm sát viên cao cấp VKSND Tối cao.
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Bị can tại ngoại
c. Hành vi phạm tội
Sau khi Trương Văn Cam bị đưa đi tập trung cải tạo, Dương Ngọc Hiệp và Phan Thị Trúc ra Hà Nội gặp Nguyễn Văn Thắng (Thắng "Tài Dậu") nhờ tìm người lo chạy tội giúp cho Trương Văn Cam, được Thắng "Tài Dậu" dẫn đến gặp Trần Văn Thuyết. Hiệp đặt vấn đề với Thuyết lo chạy tội cho Trương Văn Cam, được Thuyết đồng ý. Sau đó Thuyết nghĩ cách tiếp xúc để làm quen với ông Phạm Sỹ Chiến.
Do Thuyết quen biết với Nguyễn Thập Nhất từ trước, biết được nhất làm việc tại VKSND Hà Nội nên Thuyết đã nhờ Nhất thảo đơn kêu oan cho Trương Văn Cam và dẫn Thuyết, Hiệp đến nhà riêng của ông Chiến (tại An Dương, Tây Hồ, Hà Nội). Tại đây, Thuyết đặt vấn đề với ông Chiến nhờ xem xét giúp đỡ giải quyết đơn kêu oan cho Trương Văn Cam do bà Phan Thị Trúc đứng tên, ông Chiến hướng dẫn cho Thuyết gửi đơn đến các phòng nghiệp vụ để đề xuất.
Sau khi VKSND Tối cao nhận được đơn của bà Trúc khiếu nại về việc bắt Trương Văn Cam đi tập trung cải tạo, ông Chiến đã giao cho Vụ 2B trực tiếp xác minh, giải quyết. Qua nghiên cứu tài liệu do C16 Bộ công an cung cấp, chiều ngày 6/9/1996, Vụ kiểm sát điều tra án trị an đã có báo cáo ông Phạm Sỹ Chiến, được ông Chiến cho ý kiến: “Căn cứ tập trung giáo dục cải tạo không đủ cơ sở, không đúng đối tượng, gợi ý để họ báo cáo lãnh đạo xem xét hủy bỏ quyết định tập trung giáo dục cải tạo, nếu cứ cho là đúng thì VKSND Tối cao có văn bản kiến nghị”.
Mặc dù Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Nội vụ có công văn số 210/P2 ngày 6/9/1996 gửi VKSND Tối cao nội dung nêu rõ việc tập trung cải tạo Trương Văn Cam là có sự chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ, việc tập trung cải tạo đối với Trương Văn Cam là cần thiết và đúng đối tượng, đúng với nghị quyết 49 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Sau khi nhận được công văn trên, ông Chiến vẫn chỉ đạo vụ 2B thảo kiến nghị Bộ trưởng Bộ Nội vụ hủy bỏ quyết định tập trung giáo dục cải tạo đối với Trương Văn Cam. Thông qua việc này, ông Phạm Sỹ Chiến đã được Thuyết cho 1 dàn máy nghe nhạc trị giá 3.000 USD và 1 túi quà trị giá 1.000 USD, quy đổi ra tiền Việt Nam cùng thời điểm tương đương là 44.100.000 đồng.
Hành vi trên của ông Phạm Sỹ Chiến đã phạm vào tội nhận hối lộ, tội danh quy định tại khoản 3, điều 279, BLHS.
Vật chứng
- 1 tivi JVC 21 inch, số 5030637 (CM: 22884-001), vỏ đen đã qua sử dụng.
- 1 đầu đĩa JVC, 3 ổ đĩa, số 062 C6772, vỏ đen, đã qua sử dụng.
- 2 loa thùng EPI (loại trung), số J834 - 015015 và J834 - 015616, vỏ đen, đã qua sử dụng.
- 1 micro hiệu Taki-AT900-màu vàng, đã qua sử dụng.
132. Bị can Trần Mai Hạnh
a. Lý lịch bị can
- Sinh ngày 1/1/1943 tại Hải Dương
- ĐKNKTT: 101 F15, ngõ Thái Hà, phường Láng Hạ, Đống Đa, Hà Nội
- Dân tộc: Kinh
- Quốc tịch: Việt Nam
- Tôn giáo: Không
- Trình độ văn hóa: 10/10
- Cha: Trần Văn Chính (chết)
- Mẹ: Mai Thị Tâm (chết)
- Vợ: Bùi Thị Kim Anh, sinh 1948
- Con: có 3 người con, lớn nhất sinh 1973, nhỏ nhất sinh 1979
b. Quá trình hoạt động
Tháng 6/1966: Tốt nghiệp Đại học tổng hợp văn Hà Nội, được tuyển dụng vào Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), học lớp phóng viên do TTXVN mở. Từ năm 1966 đến 12/1967: Là phóng viên chiến sự của TTXVN thường trú tại Hải Phòng. Từ năm 1968 đến 2/1970: đi B, được cử vào tổ phóng viên TTXVN tại chiến trường Bắc Quảng Nam, Đà Nẵng. Từ năm 1970 đến 6/1971: Bị bệnh nặng, được tổ chức đưa ra Bắc chữa bệnh, điều trị tại các bệnh viện Ban thống nhất TW. Từ năm 1971 đến 1975 được Ban tổ chức TW điều động về công tác tại TTXVN, lần lượt đảm nhận các công tác: Cán bộ ban thư ký Bộ biên tập; trưởng phòng Ban biên tập miền Nam. Đầu năm 1975, được Bộ biên tập TTXVN cử tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Từ năm 1976 đến 1994 đảm nhận các chức vụ Phó tổng biên tập thường trực các báo tuần tin tức; tin tức buổi chiều; Phó trưởng ban tin trong nước của TTXVN; ủy viên Ban thư ký Hội nhà báo Việt Nam khóa V; Trưởng ban nghiệp vụ kiêm Tổng biên tập tạp chí Nhà báo và Công luận của Hội nhà báo Việt Nam. Từ tháng 3/1995 là Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội nhà báo Việt Nam; ủy viên Đảng đoàn Hội nhà báo Việt Nam; ủy viên BCH Đảng ủy khối các cơ quan TW về công tác tư tưởng. Từ tháng 6/1996 là ủy viên BCH TW Đảng khóa VIII. Từ ngày 15/11/1996 được Bộ chính trị và Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Bí thư Ban cán sự, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam kiêm Phó chủ tịch, Phó tổng thư ký Hội nhà báo Việt Nam. Từ tháng 7/1997 là Đại biểu Quốc hội khóa 10. Từ tháng 11/1998 là Bí thư Đảng ủy Đài tiếng nói VN. Từ tháng 3/2000, được bầu lại giữ chức Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký. Tháng 4/2001, được bầu là ủy viên BCH TW Đảng. Từ năm 1998 đến 2000, được bầu vào Giám đốc liên đoàn báo chí các nước ASEAN (CAJ).
- Tiền án: Không
- Tiền sự: Không
- Bị can tại ngoại
c. Hành vi phạm tội
Tháng 5/1995, Bộ Nội vụ bắt Trương Văn Cam đi tập trung giáo dục cải tạo, Dương Ngọc Hiệp, con rể của Trương Văn Cam ra Hà Nội thông qua Thắng "Tài Dậu" dẫn đến gặp Trần Văn Thuyết (tại 91 Nguyễn Thái Học, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội) nhờ lo giúp đỡ “chạy tội” cho Trương Văn Cam. Thuyết nghĩ để lo chạy tội cho Trương Văn Cam thì phải dùng cơ quan ngôn luận lên tiếng gây áp lực, buộc các cơ quan pháp luật phải thả Trương Văn Cam.
Do có quen với ông Trần Mai Hạnh từ trước, nên Thuyết biết ông Hạnh hiện đang là Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký hội nhà báo Việt Nam, Tổng biên tập tờ báo Nhà báo và Công Luận (1995 và 1996). Để thực hiện ý đồ này, Thuyết đã dẫn Dương Ngọc Hiệp đến nơi làm việc của ông Hạnh đặt vấn đề nhờ ông Hạnh đăng tải đơn kêu oan cho Trương Văn Cam của bà Phan Thị Trúc lên báo chí, ông Hạnh đồng ý theo yêu cầu của Thuyết và Hiệp, ông Hạnh đã có những việc làm cụ thể như sau:
- Ông Trần Mai Hạnh với danh nghĩa là Tổng biên tập báo Nhà báo và Công luận đã cho đăng 2 bài báo: bài “Về đơn khiếu nại của bà Phan Thị Trúc” và bài “VKSND Tối cao kiến nghị về trường hợp tập trung cải tạo đối với Trương Văn Cam” trên tờ Nhà báo và Công luận, đồng thời với danh nghĩa Hội nhà báo Việt Nam ông Trần Mai Hạnh đã trực tiếp ký 2 văn bản số 333/HNB ngày 1/2/1996 gửi ông Phạm Sỹ Chiến, Phó viện trưởng VKSND Tối cao đề nghị xem xét đơn của bà Phan Thị Trúc và văn bản số 703/HNB ngày 26/10/1996 đề nghị VKSND Tối cao cho biết quan điểm và kết quả về việc xem xét đơn của bà Phan Thị Trúc.
Để trả ơn cho ông Hạnh, Thuyết và Hiệp đã đem tiền và vật chất cho ông Hạnh gồm 6.000 USD, 1 chiếc đồng hồ Omega trị giá 2.500 USD. Ngoài ra năm 1996, khi ông Hạnh sửa nhà, Thuyết có cho ông Hạnh mượn 140.000.000 đồng (tiền này là của Dương Ngọc Hiệp đưa cho Thuyết) đến nay ông Hạnh đã trả 40.000.00 đồng thiếu nợ 100.000.000 đồng. Năm 1999, Thuyết mua cho ông Hạnh 1 dàn máy nghe nhạc trị giá 3.000 USD (tiền của Thuyết), đến nay ông Hạnh chưa thanh toán cho Thuyết.
Mặc dù đến nay, ông Hạnh không thừa nhận việc Thuyết và Hiệp đưa tiền và tài sản mà khai chỉ nhận 2 bộ đồ vest, quần áo sơ mi và một số bộ đầm cho vợ ông Hạnh. Nhưng qua lời khai của các bị can Trần Văn Thuyết, Dương Ngọc Hiệp, Tôn Vĩnh Đắc cùng với các tài liệu, chứng cứ khác đã có đủ cơ sở kết luận ông Hạnh quan hệ thân thiết, lâu dài với các đối tượng trong thời gian chạy tội cho Trương Văn Cam (1995) và đã nhận của gia đình Trương Văn Cam tổng cộng tiền và vật chất trị giá 8.500 USD, quy đổi ra tiền Việt Nam cùng thời điểm (năm 1996, tỷ giá 11.025 đồng/USD) tương đương 93.182.000 đồng.
Hành vi trên của ông Trần Mai Hạnh đã phạm vào tội nhận hối lộ, tội danh được quy định tại điều 279 BLHS.
Riêng việc Thuyết cho ông Hạnh mượn 140 triệu để sửa nhà và mua cho ông Hạnh 1 dàn máy nghe nhạc trị giá 3.000 USD, đến nay chưa trả là quan hệ dân sự nên không đề nghị xử lý hành vi này.
Để thực hiện hành vi “chạy tội” cho Trương Văn Cam, ông Trần Mai Hạnh đã cho đăng lên báo tuần Nhà báo và Công luận, số ra từ ngày 4 đến 10/1/1996 nội dung tinh thần công văn số 1333 ngày 18/9/1996 của VKSND Tối cao do ông Phạm Sỹ Chiến ký về việc kiến nghị ông Bộ trưởng Nội Vụ hủy bỏ quyết định tập trung giáo dục cải tạo đối với Trương Văn Cam. Đây là công văn có dấu “MẬT” gửi Bộ Nội Vụ, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng, Văn phòng Chủ tịch nước. Trước Cơ quan điều tra, ông Trần Mai Hạnh không khai ra ai đã cung cấp cho ông Hạnh nội dung công văn trên. Ông Hạnh xin chịu trách nhiệm về việc làm của mình.
Hành vi trên của ông Trần Mai Hạnh đã phạm tội cố ý làm lộ bí mật công tác, tội danh được quy định tại điều 286 BLHS.
Như vậy, ông Trần Mai Hạnh đã phạm vào hai tội:
- Tội nhận hối lộ (điều 279 BLHS).
- Tội cố ý làm lộ bí mật công tác (điều 286 BLHS).
Vật chứng thu giữ: 1 dàn máy Sony, số máy 5002018, bao gồm: 2 cục máy đánh chữ HCDV 5500; 5 loa ( 2 loa to, 3 loa nhỏ).