1. Các trường hợp được bồi thường
a- Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xác định việc tạm giữ là không có căn cứ và gây hậu quả nghiêm trọng;
b- Người bị tạm giam, người đã hoặc đang bị chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân hoặc đã bị thi hành án tử hình mà có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xác định không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.
Không giải quyết bồi thường đối với các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự và các trường hợp tuy có căn cứ ở trên nhưng đương sự đã cố ý giả mạo lời khai và chứng cứ để tự nhận mình phạm tội hoặc tự ý gây thương tích, tính mạng của chính mình trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù.
2. Đối tượng phải bồi thường
Việc giải quyết bồi thường thiệt hại do Nhà nước (cơ quan tiến hành tố tụng) thực hiện dựa trên cơ sở xác định trách nhiệm của từng cơ quan trong các giai đoạn tố tụng. Trường hợp tạm giữ, tạm giam không có căn cứ thì cơ quan nào ra lệnh tạm giữ, tạm giam phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu việc tạm giữ này đã có sự phê chuẩn của VKS thì VKS có trách nhiệm bồi thường.
Người trực tiếp tiến hành tố tụng gây ra sai phạm này sẽ bị xử lý theo các tội danh mà Bộ luật Hình sự quy định, đồng thời phải bồi hoàn cho Nhà nước toàn bộ hoặc một phần số tiền mà cơ quan tiến hành tố tụng đã phải trả, tùy theo tính chất, mức độ lỗi.
3. Mốc thời gian áp dụng bồi thường thiệt hại
Ban dự thảo lấy mốc là ngày 1/7/1996, thời điểm Bộ luật Dân sự có hiệu lực. Vì Bộ luật Dân sự là căn cứ pháp lý quy định các nguyên tắc bồi thường, căn cứ bồi thường, thủ tục bồi thường. Các trường hợp oan sai kể từ thời điểm này được xem xét bồi thường.
Theo kế hoạch, cho đến tháng 6, sau khi trình Chính phủ cho ý kiến, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, thông qua Nghị quyết.
(Theo Lao Động, 22/2).