Tấm bia Dữ Dã Viên được khắc từ năm 1868. |
Dấu tích còn lại là một tấm bia có niên hiệu Tự Đức năm 1868, cao 70 cm, rộng 40 cm, dày 11 cm. Mặt trước có diềm chạy chỉ tạo thành gò nổi ở chung quanh, lòng bia có 3 dòng chữ được khắc chìm xuống đá: “Tự Đức nhị thập nhất niên ngũ nguyệt cát nhật phụng sắc tạo”, tức: Vâng theo lệnh vua ban, lập bia vào ngày tối tháng 5, năm Tự Đức thứ 21 (tháng 7/1868).
Ngoài những chứng tích trên, còn một tư liệu khác quan trọng hơn xét về phương diện lịch sử và văn hóa. Đó là bài “Dữ Dã Viên ký” dài 1.413 chữ, do chính vua Tự Đức viết sau khi khu vườn được xây dựng xong. Bài ký đã được Quốc Sử Quán triều Nguyễn khắc in ở quyển 18 trong bộ “Ngự chế văn nhị tập” vào năm Tự Đức thứ 29 (1867). Nội dung kể nhiều về lịch sử và vị thế của cồn Dã Viên, lý do thiết lập khu vườn ngự và diện mạo đương thời của nó, mô tả cảnh trí và đời sống của dân cư các khu vực lân cận, tự thuật về sinh hoạt và nghỉ ngơi của nhà vua ở vườn, lý luận về ý nghĩa của đời sống tránh xa danh lợi, hòa mình vào thiên nhiên để hưởng thú thanh nhàn, lý giải vì sao lại đặt tên cho khu vườn là Dữ Dã…
Dã Viên là một cồn nhỏ sa bồi nằm ở đoạn trung lưu sông Hương, phía tây nam của kinh thành Huế. Trong hệ thống cung điện, nó được xem là nằm ở tư thế đối xứng với cồn Hến, cách Dã Viên 3,5 km về phía đông bắc. Về địa lý phong thuỷ, cả hai đều đã được các nhà quy hoạch kiến trúc đầu thế kỷ 19 siêu nhiên hóa và hình tượng hóa thành rồng và cọp trong tư thế “rồng chầu hổ phục” để bảo vệ cho vương quyền. Cồn Hến được gọi là “tả thanh long” và cồn Dã Viên được gọi là “hữu phục hổ”.
Ông Phan Thuận An cho rằng, Dã Viên, tên riêng chính thức của cái cồn này mãi đến thời Tự Đức mới có. Trước đó, dân chúng địa phương chỉ gọi chung chung là “cồn”, người Pháp gọi là “đảo”. Vua Tự Đức gọi đó là một khu vườn và đặt tên cho nó là “Dữ Dã”, tức là “Dữ Dã Viên”. Tên vua đặt là thế, nhưng từ trước đến nay, dân chúng Huế còn bớt thêm một chữ nữa cho dễ gọi và dễ nhớ: “Dã Viên”, như cồn Dã Viên, cầu Dã Viên, Nhà máy nước Dã Viên…
Hiện nay, ở Dã Viên còn sót lại nền đài của ngôi lầu có tên là Quan Phong, cao chừng 2 m. Nền mang dạng một hình tháp cụt được xây bằng gạch vồ, mặt nền hình vuông mỗi cạnh khoảng 10 m. Trên nền đài ấy hiện còn một lô cốt bằng bê tông được xây dựng vào năm 1966 cho lính canh bảo vệ nhà máy nước và cầu Dã Viên. Từ năm 1975, cả nền đài lẫn lô cốt đều bị cây hoang phủ kín giữa một khu rừng cổ thụ bao bọc xung quanh. Có lẽ vì vậy mà không ai nhìn ra nền đài này trong suốt bấy nhiêu năm.
(Theo Lao Động)