Năm nay, khi đến thăm một doanh nghiệp xuất khẩu gạo tại Đồng Tháp, tôi tìm thấy phần nào câu trả lời.
Từ giữa năm 2016, sản phẩm của công ty này được bày bán tại Fortune và BigBox, hai siêu thị bán lẻ ở Singapore. Đây là một điều hiếm hoi, bởi gạo Việt, dù là gạo chất lượng thấp hay gạo thơm, phần lớn được bán cho các nhà phân phối nước ngoài. Từ đó, gạo “made in Vietnam” được gán nhãn mác và bao bì của hãng nước ngoài rồi mới tung ra thị trường. Chúng ta bán được hàng, nhưng không có thương hiệu và bị cắt ngọn phần giá trị gia tăng lớn nhất.
Với cách làm khác, doanh nghiệp này không chỉ xoá được ám ảnh “vô danh” của gạo Việt, mà còn thu được lợi nhuận nhiều hơn ít nhất 200 USD/tấn so với các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu kiểu truyền thống. Tính đến tháng 10, họ xuất khẩu được 500 tấn sang thị trường Singapore bằng thương hiệu riêng.
Thế nhưng, điều trớ trêu là doanh nghiệp này không có... giấy phép xuất khẩu. Họ phải nhờ một bên khác xuất khẩu hộ - thuật ngữ chuyên môn là "uỷ thác" - với giá 2 USD/tấn. Bởi họ không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo Nghị định 109/2010 về xuất khẩu gạo hiện hành. Những điều kiện mà nghị định này đặt ra là phải có kho dự trữ có sức chứa 5.000 tấn/năm, nhà máy xay xát có công suất 10 tấn/giờ, phải xuất khẩu trên 20 nghìn tấn/năm....
Không chỉ có một doanh nghiệp rơi vào cảnh ấy, có những doanh nghiệp bán được gạo với giá 4.000 USD/tấn nhưng phải lách luật để bán.
Thay vì làm ổn định và nâng cao chất lượng gạo Việt Nam xuất khẩu, trong 6 năm qua Nghị định 109 tạo ra một vòng kim cô kìm toả sự phát triển của các doanh nghiệp.
Mục tiêu ban đầu của việc đặt ra những rào cản như trong Nghị định 109 là dễ hiểu trong hoàn cảnh 6 năm trước, khi gạo chất lượng thấp đang là kênh xuất khẩu chính. Văn bản này được coi là phương thuốc để dẹp loạn thị trường, gom các doanh nghiệp có đủ năng lực lại để dễ quản lý, và “chia lại” một cách công bằng hơn lợi nhuận cho nông dân. Không thể phủ nhận nghị định đã đạt được một số mục tiêu nhất định. Nhưng khi ngành gạo rục rịch chuyển hướng sang phân khúc chất lượng cao, thì nó thành lỗi thời.
Có hai điểm chính bất cập ở cái “vòng kim cô” này.
Đầu tiên là doanh nghiệp sẽ phải bao sân từ đầu vào, phát triển vùng nguyên liệu, cho đến xay xát, lưu kho và tìm bạn hàng xuất khẩu. Nó ép doanh nghiệp phải ôm trọn toàn bộ chuỗi sản xuất, không có đất cho chuyên môn hóa.
Thứ hai là kể cả anh có xây dựng được chuỗi sản xuất từ A đến Z nhưng nếu không có đủ quy mô, cũng không được phép xuất khẩu. Những doanh nghiệp muốn sản xuất quy mô nhỏ để tập trung cho chất lượng hoàn toàn bị phủ nhận bởi quy định này.
Không khó hiểu khi thị trường xuất khẩu gạo Việt tập trung vào các doanh nghiệp lớn, chạy đua thành tích xuất khẩu về sản lượng thay vì chất lượng.
Những cái vòng kim cô kiểu ấy không chỉ trói hạt gạo Việt Nam, mà còn đang tồn tại ở rất nhiều lĩnh vực kinh doanh khác.
Xuất khẩu gạo vẫn là ngành kinh doanh có điều kiện. Điều này là dễ hiểu. Bởi gạo là mặt hàng liên quan đến an ninh lương thực. Nhưng tôi cho rằng khi đã đảm bảo xong phần “an ninh lương thực” rồi, thì việc kinh doanh mặt hàng này nên để cho thị trường quyết định thay cho mê cung các văn bản hành chính lỗi thời.
Để xuất khẩu gạo, doanh nghiệp trên cũng phải thành lập một công ty con ở Singapore. Điều khác biệt là thủ tục đăng ký kinh doanh ở đây rất dễ dàng, và họ hoạt động bình thường ở đây 3 năm mà không gặp rào cản pháp lý nào.
Muốn phát triển kinh tế, nhiều khi chỉ đơn giản là tạo điều kiện để các doanh nghiệp được phép kinh doanh đàng hoàng trên đất nước mình.
Nguyễn Khắc Giang