Điều thứ nhất, không mới nhưng vẫn tồn tại như một thói quen xấu của một phận người dân đó chính là tâm lý “liều luật, lách luật, xem thường luật pháp”. Xin gọi chung là tâm lý “mù luật”, biết phạm luật vẫn làm, vẫn tìm cách lách luật, chạy luật. Tổ chức mua bán USD không được cấp phép vẫn cứ làm, người có nhu cầu mua bán USD biết phạm luật vẫn tham gia mua bán với tổ chức không được cấp phép. Tại sao?
Trong một tổ chức, cơ quan có nhiều nhân sự người ta thường quản lý thời gian ra vào của nhân viên mình qua hệ thống thẻ gạt chấm công, vậy nên chăng việc quản lý tổ chức có hay không cái quyền mua bán ngọai tệ theo cách làm tương tự? Nghe ra có vẻ buồn cười, nhưng không biết khi bắt những tổ chức này treo tấm bảng hay nhân viên của họ đeo bảng hiệu “không có chức năng mua bán ngọai tệ” thì họ có nghiêm túc thực hiện? Nhưng cái được trước tiên chính là thực hiện được một bước tuyên truyền cho dân chúng biết ai được mua bán, ai không thông qua nhãn quang.
Điều tiếp theo cần phải trăn trở chính là nguồn ngọai tệ để đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cá nhân trong nước. Nếu đáp ứng đủ hay dư thừa ngọai tệ đã không phát sinh điều thứ nhất. Bản thân tôi vẫn tự hỏi, nhà nước đã và đang thực hiện nhiều biện pháp để tránh đôla hóa nền kinh tế, và đã rất thành công. Nhưng vẫn còn nhiều khía cạnh để suy nghĩ, nếu đôla không hóa nền kinh tế thì hàng hóa ngọai nhập lại gián tiếp biến nền kinh tế thành kinh tế hàng hóa định giá bằng đôla quy đổi ra VNĐ.
Nếu cấm mua bán ngọai tệ vì bản thân nó chưa chuyển sang hình thái khác, hay nó chưa thực hiện vai trò trung gian trao đổi, là việc cần làm trong hòan cảnh hiện tại. Nhưng việc mua bán hàng hóa ngọai nhập cũng chính là gián tiếp mua bán trao đổi đôla, chúng ta không thể cấm. Nhưng vẫn có những cách làm khác để hạn chế điều này.
Thử hỏi một doanh nghiệp chuyên về xuất khẩu, anh dành bao nhiêu phần trăm doanh thu từ xuất khẩu nội địa? Tại sao những mặt hàng là thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày chúng ta vẫn nhập khẩu, nhu cầu nội địa về hành ngọai nhập vẫn có, và có rất nhiều? Xuất khẩu lúa gạo Việt Nam đứng thứ 1, thứ 2 thế giới nhưng trong vùng lúa gạo thì gạo ngọai vẫn tràn lan, nghe nghịch lý, nhưng nó vẫn diễn ra. Vậy thì nguồn đôla có dồi dào đến mấy cũng phải khốn đốn.
Đứng trên góc độ một người công dân yêu nước tôi cảm thấy thất vọng về điều này. Đôla hóa nền kinh tế hay hàng hóa ngọai hóa nền kinh tế điều đáng lo như nhau. Chúng đã biến tướng đi rồi, có thể nhận biết nhưng dễ lãng quên, khó kiểm soát hơn cả thị trường đôla chợ đen. Như đã nhiều lần thể hiện sự thất vọng về cách làm ăn thiếu “chữ tâm”, không đặt uy tín chất lượng lên hàng đầu của một bộ phận nhà sản xuất trong nước đã góp phần không nhỏ bán khách hàng trong nước, bán thị trường tiêu dùng trong nước cho nhà sản xuất nước ngòai. Vậy là nỗi lo ngọai tệ thêm chồng chất.
Tại sao dân mình vẫn mua đôi giày cả trăm đôla, một chiếc áo vài trăm ngàn của hàng ngọai nhập? Vì uy tín, vì thương hiệu, vì chất lượng. Và trên hết là vì lòng tin của họ đặt vào đó. Câu hỏi đau lòng :”Cho đến bao giờ tất cả nhà sản xuất trong nước xem khách hàng trong nước là thượng đế?” Như câu nói “khách hàng là thượng đế” từ xưa đến nay. Bên cạnh một chiến lược marketing (giới thiệu sản phẩm) rầm rộ, thì các doanh nghiệp, nhà sản xuất cần nên nghĩ đến chiến lược xây dựng niềm tin khách hàng vào chất lượng và uy tín của doanh nghiệp mình. Trao đổi mua bán những cái mình thiếu, mình chưa làm ra được thì chấp nhận, còn những thứ mình dồi dào, mình là nguồn cung vẫn nhập. Tại sao?
Điều thứ ba, như một đứa trẻ mới biết về kinh tế, sau khi đọc xong bài viết trên của Lệ Chi, tôi tự hỏi:” Tại sao lại là đôla?”. Sao không dùng tiền đồng trong thanh toán? Rồi từ đó tôi lại vào google để tìm cụm từ “tự do chuyển đổi”. Tôi đọc được quyết định số 98/2007/QĐ-TTg ban hành ngày 4 tháng 7 năm 2007 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về :”Nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đôla hoá trong nền kinh tế”. Và đọc bài “Đồng Việt Nam hướng tới tự do chuyển đổi” mới thấy được những khó khăn, mà theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước) thì một đồng tiền được chuyển đổi phụ thuộc vào 4 yếu tố. Cụ thể là tự do hoá các giao dịch vãng lai; nới lỏng các giao dịch tài khoản vốn (nguồn vốn vào - ra không gặp trở ngại); thả nổi tỷ giá hối đoái; và cuối cùng là phải có thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường hối đoái mở.
Trong bốn yếu tố này, có những cái VNĐ chưa thể đáp ứng, và nhiều đồng tiền khác trên thế giới cũng thế. Vấn đề này quả thật quá khó, quá khó để VNĐ trở thành một đồng tiền tự do chuyển đổi trong tương lai gần. Vậy thì chúng ta phải chấp nhận sống chung với “lũ”? Vậy phải làm sao đây?
Gần đây có rất nhiều quyết định được Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) đưa nhằm thu hút nguồn đôla từ các tổ chức, thành phần kinh tế nhà nước như những tập đòan, công ty lớn có nguồn thu chi đôla dồi dào. Rồi nhìn những ông lớn như VNPT, Viettel, EVN làm khó nhau trên sân chơi kinh tế trong nước mới thấy, sao khổ thế? Lợi ích nếu có từ tập đòan này chạy qua tập đòan khác thuộc kinh tế nhà nước có khác nhau, nhìn trên tổng thể? Nhà nước cần những báo cáo đẹp, hay cần tính hợp tác hỗ trợ lẫn nhau? Mục đích tồn tại kinh tế nhà nước để làm gì? Có phải để những đầu tàu này kéo nguồn máy kinh tế Việt Nam sớm hóa rồng? Hay để ganh đua làm khó nhau trong phát triển? Tại sao trong khi NHNN đang khó khăn về ngọai tệ, các doanh nghiệp của nhà nước có nguồn dự trữ dồi dào không lên tiếng, đợi đến luật kêu gọi mới ra tay “nghĩa hiệp”? Ngay ở sàn diễn trong nước các thành phần kinh tế còn xem nhẹ, con cùng mẹ còn ganh ghét lẫn nhau.
Khó khăn ngọai tệ, khó khăn về thực hiện đồng tiền VNĐ tự do chuyển đổi trong tình cảnh này chắc phải đợi đến ngày khu vực đồng tiền chung Asian ra đời mới giải quyết được thôi.
Ngô Dũng PYV