Một thực tế đã và đang diễn ra, đó là đồng tiền Việt Nam (VND) đang giảm giá so với đồng dollar Mỹ (USD). Một dollar Mỹ (1 USD) tương đương 10.000 VND – 12.000 VND cách đây hơn 10-12 năm, giờ đã là khoảng 19.500 VND theo giá thị trường (gần gấp đôi). Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh tự nhiên, khách quan, do “bàn tay vô hình” của thị trường tự chi phối và điều tiết hay do chính sách can thiệp tỉ giá của ngân hàng nhà nước và chính phủ từ mềm mại, linh hoạt, nhẹ nhàng hay “đột ngột” gây sốc cho thị trường. Điều này tác động đến các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu nói riêng như thế nào?
Khảo sát trường hợp doanh nghiệp A, B, C, D, E, F như dưới đây:
Assumption: | |||||||
VND devalued |
2.000VND (18.000VND to 20.000VND) | ||||||
Profit rate at 10%: | (a) 180.000VND (before devalued) or (b) 10USD; Fixed profit proposed per VND or USD export after all costs and expenses | ||||||
A | B | C | D | E | F | ||
No |
Import Rate |
0.5 | 0.6 | 0.7 | 0.8 | 0.9 | 1 |
1 |
USD paid |
$50 | $60 | $70 | $80 | $90 | $100 |
2 |
Incremental charge (VND) |
100.000 | 120.000 | 140.000 | 160.000 | 180.000 | 200.000 |
3 | Profit after devaluation in (a) in VND | 80 | 60 | 40 | 20 | 0 | -20 |
4 |
Profit after devaluation in (b) in VND |
100.000 | 80.000 | 60.000 | 40.000 | 20.000 | 0 |
5 | Incremental profit up to local materials rate | 50% | 40% | 30% | 20% | 10% | 0% |
Note: this means every 10% of local-made material will create 10% profit increasing |
Giả thiết:
- Doanh nghiệp trong các trường hợp A, B, C, D, E, F đều thu được doanh số 100 USD khi xuất hàng
- Các trường hợp làm hàng xuất khẩu với tỉ lệ nội địa hóa khác nhau: A – nhập khẩu 50% (phải trả cho bên bán nước ngoài 50 USD để nhập hàng nguyên vật liệu về) tức A phải mua nguyên liệu đầu vào hết 50 USD, còn lại mua trong nước hay tỉ lệ nội địa hóa đầu vào của A trong trường hợp này là tối đa 50% (không kể hàng hóa A mua được trong nước cũng do doanh nghiệp khác nhập khẩu về); tương tự B có tỉ lệ nhập khẩu là 60% hay 60 USD tức tỉ lệ nội địa tối đa tới 40% (dùng mua hàng trong nước)… và F – nhập khẩu 100% hay nhập hoàn toàn cho mỗi 100 USD doanh số thu về hay F là doanh nghiệp nhập khẩu 100 USD cho mỗi 100USD xuất khẩu (giả thiết lý thuyết hoặc F chính là doanh nghiệp chuyên nhập khẩu).
- Tỷ giá biến động từ 1 USD tương đương 18.000 VND lên 20.000 VND như thời gian vừa qua, tức biến động 2.000 VND cho mỗi USD.
- Lợi nhuận (sau chi phí) thu về của các doanh nghiệp A, B, C, D, E, F đều là 10% trên doanh số xuất khẩu 100USD; tức là (a) 180.000 VND tại thời điểm trước khi tỉ giá biến động (doanh nghiệp dự kiến lời 10% bằng tiền Đồng vì các chi phí doanh nghiệp trong nước được dự kiến bằng VND; và là (b) 10 USD tại thời điểm thu về bằng USD hàng xuất khẩu. Giả thiết khác: doanh nghiệp chưa thể tăng giá hàng hóa bán ra.
Giải thích:
Chúng ta nhận thấy, để thu về 100 USD, doanh nghiệp phải trả cho bên bán nước ngoài (hàng 1) bằng USD với tỉ lệ tăng tương ứng theo tỉ lệ hàng nguyên liệu phải nhập về. Số tiền đồng (VND) phải trả thêm cho mỗi USD cũng gia tăng theo (hàng 2 – nhân với 2.000VND).
So với dự kiến lợi nhuận bằng tiền đồng (VND) tức trường hợp (a) thì (xem hàng số 3) lợi nhuận các doanh nghiệp sẽ giảm từ A: 80.000VND xuống –F: 20.000VND (thua lỗ); nếu theo dự kiến bằng USD như trường hợp (b) (doanh nghiệp được bán USD theo giá thị trường khi xuất khẩu và thu tiền về) thì đỡ hơn một chút (xem hàng số 4). Hàng số 5, cho thấy khi so sánh giữa các trường hợp A, B, C, D, E, F thì mỗi khi tỉ lệ % số tiền USD phải trả để mua hàng nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh (nhập khẩu) tăng lên 10% thì lợi nhuận dự kiến của doanh nghiệp giảm 10%. Điều này tỉ lệ nghịch với tỉ lệ nội địa hóa nguyên vật liệu.
Nếu doanh nghiệp chỉ phải thanh toán hàng hóa bằng tiền đồng VND trong nước thì sẽ không phải chịu thiệt khi tỉ giá biến động như vừa qua (ít tác động). Doanh nghiệp có tỉ lệ nội địa hóa càng cao sẽ có ưu thế lợi nhuận lớn hơn doanh nghiệp có tỉ lệ nội địa hóa thấp, do chịu thiệt khi tiền đồng Việt Nam giảm giá hay phá giá tiền đồng. Ví dụ: A (nhập khẩu 50% và mua nội địa tối đa tới 50%) sẽ có lợi hơn B, C, D, E và dĩ nhiên là F vì có tỉ lệ nhập khẩu cho sản xuất kinh doanh cao hơn (xét biến động tỉ giá chứ không khảo sát lợi thế khi doanh nghiệp mua hàng giá rẻ từ nước ngoài).
Tỉ lệ nội địa hóa tùy thuộc nhiều vào lĩnh vực, ngành nghề, chủng loại hàng hóa cũng như lợi thế so sánh của mỗi quốc gia như tài nguyên thiên nhiên (mỏ quặng, thủy hải sản, nông lâm sản…); cơ cấu dân số và chất lượng dân số lao động già, trẻ; trình độ giáo dục, khoa học công nghệ, phát minh sáng kiến, trình độ quản lý nhà nước và điều hành kinh tế vĩ mô – thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở của chính sách và pháp luật, khả năng học hỏi, sáng tạo, rút kinh nghiệm và vượt khó trong điều hành doanh nghiệp; và các mối tương quan lịch sử, địa chính trị, kinh tế truyền thống của các quốc gia và khu vực.
Do vậy, việc quyết định điều chỉnh tăng hay giảm giá tiền đồng so sánh với một ngoại tệ nào đó, ở đây là USD – một ngoại tệ truyền thống mạnh nhất trên thế giới, phải nhìn vào cấu trúc hiện tại của nền kinh tế đất nước. Ngoài các yếu tố như thâm hụt ngân sách (bội chi khoảng 5% năm 2008 và 6.9% năm 2009), tăng trưởng tín dụng nhanh (hơn 40% liên tiếp trong 2 năm 2008 và 2009 - theo TBKTSG số 1-2010, trang 12), đầu tư kém hiệu quả và thất thoát trong các dự án nguồn vốn nhà nước (các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ và nhà nước phải tái đầu tư để cứu) hoặc vay ODA (cần lưu ý là các quốc gia có khả năng tự chủ tài chính cao sẽ không cần phải vay ODA - vay ưu đãi lãi suất tương đối thấp, dài hạn và có điều kiện - ngay cả các quốc gia trong khu vực như Thailand, Indonesia, Malaysia… với phép tính đơn giản là phải thuê chuyên gia của nước cho vay, trả lương cao; mua hàng hóa của nước cho vay ODA, thì họ đã lời vài chục phần trăm cho việc bán hàng hóa này, thực chất đây có thể là một bài toán kinh doanh chứ không hẳn là viện trợ hay trợ giúp 100% - đây là gánh nặng phải trả trong tương lai con cháu chúng ta, nếu chúng ta sử dụng vốn ODA phung phí, không hiệu quả, thất thoát, tham nhũng – hơn nữa, việc điều chỉnh tỉ giá cũng có thể làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài phải trả khi thanh toán bằng ngoại tệ), dự trữ ngoại tệ, vàng ở mức độ an toàn ra sao, mức độ nợ nước ngoài và lãi suất phải trả hàng năm… chúng ta cần chú ý vấn đề tỉ lệ nội địa hóa trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại cũng như tương lai.
Nên chăng các nhà điều hành kinh tế vĩ mô cần có các nghiên cứu sâu, các thông tin lượng hóa đầy đủ, cụ thể như: lĩnh vực nào, ngành nghề nào, công ty nào sẽ được lợi hay hại từ biến động tỉ giá tăng hay giảm? Dự báo trước sẽ giúp phòng tránh các tác động xấu trên thị trường.
Không thể máy móc sao chép các mô hinh kinh tế các nước khác trong khi điều kiện mỗi nước hoàn toàn khác nhau. Trung Quốc có nền kinh tế sản xuất dựa vào sức lao động giá rẻ và tiêu tốn tài nguyên môi trường nhưng cũng có tỉ lệ nội địa hóa hàng hóa nâng cao hơn Việt Nam ( hàng công nghiệp chiếm tới 95% tổng lượng hàng xuất khẩu năm 2008 – theo TBKTSG số 1-2010, trang 50); các quốc gia phát triển như Mỹ, Đức,… có nền xuất khẩu dựa vào chất xám, công nghệ cao, hiện đại có thể muốn giử chính sách đồng tiền yếu để hỗ trợ xuất khẩu. Nói cách khác, các công ty Trung Quốc với tỉ lệ nội địa hóa cao hơn sẽ có lợi hơn các công ty Việt Nam có tỉ lệ nội địa hóa thấp trong cùng một chính sách ‘đồng tiền yếu’ hỗ trợ xuất khẩu!
Khi phải quyết định phá giá hay giảm giá đồng tiền VND – chính sách “đồng tiền yếu” - để cứu thâm hụt ngân sách hay hỗ trợ xuất khẩu, nâng sức cạnh tranh hàng hóa để chiếm lĩnh thị trường quốc tế, hoặc chống nhập siêu cao (nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu – có lẽ không thể tránh khỏi trong phát triển kinh tế giai đoạn hiện tại), nếu không cân nhắc kỹ các yếu tố lợi hại, sẽ chịu các tác động như giá tiêu dùng gia tăng nhanh (nhiều nghiên cứu, nhận định tỉ lệ lạm phát sẽ tăng cao trong năm 2010 – điều này có lẽ là hiển nhiên, bởi vì giá USD đã tăng khoảng 5-7% và giá vàng đã tăng từ 22 – 23 triệu đồng/lượng tới khoảng 27 triệu đồng/lượng như hiện nay tức hơn 17% trong năm 2009 – trên bình diện từ 2-3 năm, 2007 – 2009, thì cả vàng vàUSD đã tăng hơn 20% - 25% so với VND), ảnh hưởng đến mọi tầng lớp xã hội mà người lao động nghèo sẽ gánh chịu nặng nề nhất ( ví dụ: gói xôi tăng từ 3,000VND lên 5,000VND; ổ bánh mì tăng từ 5,000VND lên 8,000VND thì người lao động, hưu trí với mức lương và thu nhập cố định thấp sẽ bị thiệt hại nặng nhất, không đủ tiền cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày).
Bất ổn về tỉ giá sẽ khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân có tâm lý găm giữ vàng, USD, bất động sản… để tránh bị mất giá tài sản. Không thể kêu gọi họ hy sinh quyền lợi riêng vì một mục đích chung chưa rõ ràng, cụ thể ( ví dụ: tôi bán USD với giá 18.500 VND cho ngân hàng, liệu khi cần nhập hàng tôi có được mua USD với giá đó không? Hay ngân hàng vẫn ‘bắt’ doanh nghiệp tự mua USD từ ‘chợ đen’? Hơn nữa, người khác có hy sinh như tôi? Ai được hưởng lợi nhiều hơn?). Thực tế, nếu đầu năm 2009, ai đó bán vàng ra đầu tư sản xuất kinh doanh, sau một năm làm ăn có lãi, có thể không mua lại được số vàng đầu năm đã bán.
Trên bình diện quốc tế, một quốc gia có đồng tiền chưa chuyển đổi tự do được (khi đi công tác nước ngoài, chúng ta phải tự mua USD để mang theo dùng, chưa thể mang VND theo và đổi tiền ở ngân hàng nước ngoài) sẽ gặp rất nhiều bất lợi trong thương mại quốc tế cũng như uy tín và thương hiệu của đất nước (ví dụ: doanh nghiệp không thể thương thảo hợp đồng mua hàng và thanh toán bằng VND). Chúng ta cũng tự đánh mất khả năng sử dụng ‘bàn tay vô hình’ của thị trường để điều chỉnh chính sách tỉ giá. Các thay đổi chính sách tỉ giá liên tục, mang tính chủ quan hoặc thiếu kinh nghiệm mà sai sót là tất yếu, chạy sau biến động thị trường sẽ làm mất uy tín về khả năng điều hành kinh tế vĩ mô (năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2009 đã tụt hạng từ 68/131 giai đoạn 2007-2008 đến 70/134 giai đoạn 2008-2009 xuống 75/133 giai đoạn 2009-2010, chủ yếu do yếu tố về ổn định kinh tế vĩ mô, tụt sâu 42 bậc, từ 70 xuống 112 – theo TBKTSG số 1-2010, trang 11) tạo một tâm lý không tốt cho cả người mua, người bán và các thương vụ hợp tác làm ăn từ nhỏ tới lớn, cho tới hợp tác ở qui mô quốc tế khu vực và thế giới.
Nên chăng phải có một lộ trình rõ ràng giúp đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi tự do, sòng phẳng với các đồng tiền phổ biến khác trên thế giới? Đây cũng là một nội dung quan trọng của hội nhập với nền kinh tế thế giới?
Cảnh Thái