Ảnh: Hoàng Hà. |
Theo điều 3 của dự thảo luật, công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao, có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.
Không thể nói định nghĩa này không đúng nhưng có lẽ cần phải phân tích kỹ ý nghĩa của cụm từ "là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ". Bởi lẽ, nếu không phân tích cho rõ thì chúng ta sẽ mặc nhiên thừa nhận một số loại công nghệ như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ tự động hoá... là công nghệ cao mà không tính đến sự tích hợp của các lĩnh vực khoa học công nghệ trong đó.
Đơn cử, công nghệ thông tin (CNTT) là lĩnh vực công nghệ hàm chứa sự tích hợp của rất nhiều kiến thức về toán học rời rạc, thuật toán (algorith), cơ sở dữ liệu... và điều tối thiểu với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc khi ứng dụng CNTT là phải giải quyết được bài toán về ngôn ngữ học cho mình trên môi trường máy tính. Khi đó, không còn là câu chuyện thuần tuý của CNTT nữa mà tri thức về ngôn ngữ học phải được tích hợp vào đó.
Ngoài ra nếu không có những thành quả của công nghệ vật liệu để chế tạo ra các chip vi điện tử và linh kiện với kích thước càng ngày càng nhỏ thì đương nhiên không thể có được các sản phẩm CNTT ngày càng nhỏ gọn và tiện ích như ngày nay.
Chuyển sang lĩnh vực công nghệ sinh học, việc các nhà khoa học Mỹ hoàn thành viện giải mã và thiết lập được bản đồ gene người cũng là công trình khoa học không hoàn toàn của ngành sinh học. Bằng chứng là những hình ảnh giới thiệu về thành tựu này lại cho thấy sự hiện diện của máy tính có phần nhiều hơn các dụng cụ thí nghiệm. Nếu không có sự phát triển của CNTT cả về phần cứng lẫn phần mềm thì công nghệ sinh học có thể sẽ không hoàn thành được công việc này.
Đó mới chỉ là 2 lĩnh vực được đơn cử và thực tế của nó cho thấy, đó là những công nghệ mang tính tích hợp. Định nghĩa về công nghệ cao phải như vậy mới thật sự chính xác và phải nhìn vào thực tế mang tính liên ngành của các lĩnh vực khoa học.
Trở lại mối quan hệ giữa CNTT và Ngôn ngữ học tại Việt Nam, đây chính là điểm thiếu sót căn bản trong Chiến lược Quốc gia về Công nghệ Thông tin - Truyền thông được Chính phủ ban hành cuối năm 2005. Nguyên nhân cũng thật dễ hiểu vì tại các cuộc hội thảo được Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ Thông tin Truyền thông) tổ chức, đây là vấn đề đã không được ai đề cập.
Theo một chuyên viên Viện Công nghệ Thông tin, mối quan hệ giữa CNTT và Ngôn ngữ học chính là "bóng tối dưới chân cột đèn" không mấy ai nhìn vào và thậm chí bị coi thường. Với ngành học CNTT ở các đại học, những điều tra với sinh viên cho thấy rất ít em trả lời được về các khái niệm về mã tổ hợp và mã dựng sẵn tiếng Việt trong bảng mã Unicode mà báo chí từng đề cập nhiều những năm 2002 - 2003. Còn với ngành ngôn ngữ học, điều bất ngờ với không ít người trong giới CNTT khi tiếp cận là hoá ra không ít người của cộng đồng này cũng xa lạ, không biết trả lời thế nào trước những câu hỏi về vị trí đặt dấu thanh, quy luật để soát lỗi chính tả...
Để phục vụ các nhu cầu "mặc áo cho nền công nghiệp", chúng ta có hẳn một trường đại học về lĩnh vực này. Rất tiếc, thực tế là các họa sĩ mỹ thuật công nghiệp lại không biết đọc các bản vẽ kỹ thuật của kỹ sư cơ khí chỉ vì trong chương trình học của họ không có các môn học về vẽ kỹ thuật cơ khí, nguyên lý máy, chi tiết máy... dù chỉ ở mức cưỡi ngựa xem hoa. Ngược lại, các kỹ sư cơ khí cũng chẳng được học về thẩm mỹ công nghiệp nên sản phẩm mà họ thiết kế ra sẽ có nhiều vấn đề tồn tại về thẩm mỹ.
Chuyển sang lĩnh vực văn học, đương nhiên dòng văn về khoa học giả tưởng hoàn toàn xa lạ không chỉ với nhà trường mà cả với các cơ quan nghiên cứu nghệ thuật (các cơ quan nghiên cứu này không hề có chuyên gia nào về khoa học giả tưởng). Số lượng các nhà văn của dòng văn học này ở Việt Nam hiện chỉ đếm trên đầu ngón tay và thực ra họ cũng xuất thân từ người làm khoa học. Còn những dịch giả về khoa học giả tưởng thì đó cũng chỉ là công việc "tay trái" bởi lĩnh vực chính mà họ công tác là về khoa học tự nhiên.
Tuy nhiên, câu chuyện điển hình cần phải đề cập lại là khảo cổ học khi người ta cứ thắc mắc, đặt câu hỏi xem Tháp Chàm xây dựng bằng công nghệ gì (nung cả toà tháp hay sử dụng một loại vật liệu kết dính đặc biệt). Để trả lời cho câu hỏi này, tại sao không "đặt hàng" với các chuyên gia về công nghệ vật liệu? Biết đâu, câu trả lời lại là quá ư đơn giản vì đó thực chất chỉ là một loại gạch không nung. Lúc còn ướt, người ta sẽ xếp chồng lên nhau và theo thời gian thì nó sẽ cứng lại và thậm chí liên kết với các viên gạch khác.
Dẫu vậy, cũng thật khó để thúc đẩy sự hợp tác liên ngành bởi thực tế, các ngành luôn ở trong tình trạng chờ đợi nhau nếu như có thiện chí. Còn nếu không được như thế, người ta tìm cách né tránh, thậm chí tẩy chay. Bởi thế, đã có một chuyên gia ở vị trí lãnh đạo cao cấp của Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam có lời rằng: "Khoa học liên ngành là vấn đề trước hết của nhận thức. Mà một khi nhận thức chưa thay đổi được thì không thể ép nhau bất cứ chuyện gì".
Kết cục là các ngành khoa học đều dấn sâu vào cái "tháp ngà" để nghiên cứu những thứ cao siêu của chính mình mà không ai hiểu được và đương nhiên là không ai dám bác bỏ. Chính vì thế mới có chuyện các cơ quan nghiên cứu khoa học được nhà nước rót kinh phí cực lớn mà chẳng mấy chế tạo được ra các cỗ máy phục vụ nền sản xuất trong khi đó lại có không ít người không được đào tạo, học tập bài bản lại chế tạo ra những cỗ máy hết sức tiện ích với giá thành rẻ.
Thực tế của nền khoa học thế giới cho thấy chân giá trị của khoa học liên ngành với rất nhiều thành tựu. Nước Nga thời Sa hoàng từng có nhà khoa học nổi tiếng là Ladyguin với phát minh ra bóng đèn huỳnh quang, sau khi thất bại với việc chế tạo máy bay. Tuy nhiên, khi được hỏi vì sao ông có phát minh này và có phải là ông đã từ bỏ ý định chế tạo máy bay thì Ladyguin khẳng định là ông không hề từ bỏ ý đồ đó. Còn phát minh về đèn huỳnh quang thì đơn giản chỉ vì ông có suy nghĩ là trong khoang lái chật hẹp của máy bay sẽ rất nóng nếu như sử dụng bóng đèn sợi đốt.
Trở lại với Việt Nam trong thực tế chưa đi đến đâu của những hợp tác liên ngành, đã có nhà khoa học bày tỏ mong muốn phải có mối quan tâm của các cấp lãnh đạo để tạo ra môi trường này. Thực tế đòi hỏi những người làm công tác lãnh đạo của tất cả các ngành từ tự nhiên đến xã hội phải có tầm nhìn chiến lược và chủ động đón bắt những thành tựu khoa học của cách lĩnh vực khác chứ không chỉ là những định hướng mang tính "hàn lâm" một cách cổ điển để đào sâu kiến thức của mình, mà không tiếp thu tri thức của các ngành khoa học khác.
Định nghĩa về Công nghệ cao theo dự thảo Luật (Điều 3) |
1. Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao, có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. |
Nguyễn Đức Hoàng
Trưởng ban Thông tin Truyền thông - Hội Trí thức Khoa học & Công nghệ Trẻ Việt Nam